What's new

[Tổng hợp] Nepal - the land of lord buddha - lễ phật đản 2018 tại lâm tỳ ni

BUDDHA JAYANTI 2018
Lễ Phật Đản 2018
Khi cuộc sống ném cho bạn nhiều áp lực mà bạn phải đối mặt, bạn sẽ làm gì? Chúng tôi, 4 cô gái chúng tôi đi hành hương về nơi Đức Phật đản sanh để tìm về sự yên ổn trong tâm linh. Bới vì Đức Lạt Ma có dạy:
“ Human being are of such nature that they should have not only material facilities but spiritual sustenance as well. Without spiritual sustenance, it is difficult to get and maintain peace of mind”
:" Bản Chất của con người là không chì có vật chất mà còn cần đời sống tâm linh. Nếu không có đời sống tâm linh, rất khó để đạt an bình và giữ được bình an trong tâm hồn".

Lễ Jayanti hay còn gọi là Vesak , chúng ta gọi là Lễ Phật Đản.
Lễ Jayanti là một ngày đặc biệt cho cả người đạo Hindu và đạo Phật ở Nepal, theo Phật giáo nguyên thuỷ và Phật giáo Tây Tạng thì ngày này là ngày Tam hiệp , Vào ngày này Đức Phật đản sanh, Giác ngộ và Viên Tịch cùng một ngày trăng tròn của tháng thiêng Phật lịch của Mật Tông Tây Tạng. Lễ Jayanti năm nay rơi vào 30 tháng 04.
Ngày Phật Đản được kỷ niệm vào các ngày khác nhau, tùy theo quốc gia.
Một số quốc gia với đa số Phật tử chịu ảnh hưởng Bắc tông (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam) thường tổ chức ngày lễ Phật đản vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch.
Lumbini, ở vùng đồng bằng Terai phía tây của Nepal, là nơi Hoàng tử Siddhartha (Đức Phật) được sinh ra. Hoàng tử mới sinh được cho là đã thực hiện bảy bước và thốt ra một thông điệp vượt thời gian cho tất cả nhân loại. Người ta tin rằng điều này đã xảy ra trong khu rừng Sal xinh đẹp, hiện giờ là điểm đầu của Vườn Lâm Tỳ Ni. Hôm nay là ngày lễ Tam Hiệp, nên các phật tử hành hương về đây rất đông, chúng tôi cũng có mặt tại Vườn Lâm Tỳ Ni và Kinh thành Ca tỳ Na Vệ để thăm kinh thành nơi Đức Phật sống đến năm 29 tuổi, hiện nay tại đây có mộ cha mẹ Đức Phật.
Đền Mayadevi và hồ thiêng nơi Hoàng Hậu Maya sinh Đức Phật
Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao Đức Phật không đản sanh ở cung thành mà lại đản sanh ở vườn Lâm Tỳ Ni? Sự việc này không phải tự nhiên mà ẩn chứa bên trong là thông điệp cần thiết cho hết thảy chúng sanh. Quán sát cả cuộc đời Ngài, Chúng ta sẽ thấy không những khi đản sanh mà ngay cả khi thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn, Ngài đều chọn nơi rừng vắng vẻ, yên tĩnh. Hạnh nguyện cao cả của Ngài đã hướng cho chúng sanh tìm ra được sự an lạc ngay trong cuộc sống hiện tại, sống hạnh viễn ly sẽ được nhiều hạnh phúc, sống có tình thương ban trãi đến mọi người sẽ được mọi người kính trọng.
2 by daisy pham, trên Flickr
3 by daisy pham, trên Flickr
DSC03837 by daisy pham, trên Flickr

DSC03820 by daisy pham, trên Flickr

Dòng người xếp hàng vào nơi Đức Phật đản sanh, đa số là dân Nepal hay Ấn, họ cầu nguyện và đụng vào tường đá, và thảy xu để cầu nguyện
DSC03814 by daisy pham, trên Flickr
DSC03832 by daisy pham, trên Flickr
 
Last edited:
Chùa Việt tại Lâm Tỳ Ni.
Trong khi các chùa khác - Tàu Thái, Hàn , Nhật thì khách tham quan nườm nượp, qua đến chùa Việt thì hiu quạnh quá, cho dù chùa nằm ngay con đường lớn, cửa chùa hé mở, có mấy người Nepal chắc làm công quả ngồi 1 góc trước cửa chùa, khi tụi mình ghé qua, gọi cổng thì mới chạy ra mở, nghe giới thiệu mình là người Việt Nam qua nên khi vào điện lễ sau, bác nepal già mở cửa hậu điện cho tụi mình ghé tham quan, có một sư Việt mới qua, thầy ở An Giang, bác Nepali nói thầy là tụi mình VN qua viếng chùa nên thầy có vẻ hơi miễn cưỡng tiếp thì phải, Thầy không mặc đồ tu hành, nhưng đầu trọc nên mình biết là thầy, hỏi thầy là người Việt Nam phải không, thầy nói oh,yeah, nên phải hỏi lại lần nữa là Thầy là người Việt ạ, giọng thầy lại lơ lớ như Việt Kiều xa quê từ bé.
DSC03895 by daisy pham, trên Flickr
DSC03903 by daisy pham, trên Flickr
Trong chùa có mô hình chùa một cột.
DSC03896 by daisy pham, trên Flickr

Nói chuyện vài câu với thầy, rồi xin phép ra về
Đi qua gần chùa Nepal thì thấy có chùa Việt nhưng cửa đóng then cài
DSC03907 by daisy pham, trên Flickr
 
Thật là hữu duyên, buổi trưa đi ăn cơm, nghe nhí nhố tiếng Việt nên một thấy tu người Việt đang học ở Bồ Đào Tràng nghe được, thầy hỏi han và giới thiệu thầy người Phan Thiết, qua Nepal xem lễ Phật Đản và làm từ thiện tại Nepal
Thế là rủ thầy cùng đi Ca Ty LA Vệ, quê hương của Đức Phật – thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilvastu) nằm tại vùng Tilaurakot, thuộc biên giới Ấn Độ và Nepal, cách Lâm Tỳ Ni khoảng 27 km. nơi mà Đức Phật đã sống 29 năm đầu tiên trong cuộc đời của mình
khuôn viên cổ thành Ca Tỳ La Vệ, trước mắt chúng tôi là những phế tích ngổn ngang với hàng trăm ngàn viên gạch đã rêu phong và bào mòn theo năm tháng
DSC03985 by daisy pham, trên Flickr

DSC03962 by daisy pham, trên Flickr

Trích trong : Thế Giới Phật Giáo có nói đến kinh thành như sau:
"Ca Tỳ La Vệ thực sự là một điểm đến quan trọng, là một trong những thánh địa liên quan đến một con người vĩ đại cách đây hơn 2.500 năm. Thứ nhất về khoảng cách thì nó cách Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật đản sinh khoảng 27km, thứ 2 đây là nơi mà Đức Phật đã sống 29 năm đầu tiên trong cuộc đời của mình, thứ 3 là nơi mà ông tiên A-tư-đà đã ngồi thiền định để xem tướng cho thái tử Sĩ Đạt Ta, thứ 4 là nơi mà 500 người trong dòng họ Thích Ca đã xin quy y thọ giới với Đức Phật và cuối cùng đây cũng chính là nơi chư thiên đã đi xuống cầu Phật nghe pháp.

Về lịch sử, vào năm 636, Ngài Huyền Trang đã đến thăm viếng ngôi thành cổ này và diễn tả một cách chi tiết trong Đại Đường Tây Vực ký: “Thành Ca Tỳ La Vệ kiến trúc theo lối cổ kính, xây dựng toàn bằng gạch đá quý, bức tường thành vẫn còn, và kiến tạo rất kiên cố. Hiện tại chỉ còn 634 phố, nhà lơ thơ và một ít dân chúng đang sống ở đó. Chung quanh có độ 100 tịnh xá bị hư hỏng. Gần chỗ này có một ngôi tịnh xá vĩ đại, 30 tu sĩ tiểu thừa và hai ngôi đền của Bà La Môn giáo”.
Như vậy, kinh thành Ca Tỳ La Vệ tuy không phải là một vương quốc lớn nhưng cũng vô cùng trù phú. Tương truyền rằng, khi xưa Ca Tỳ La Vệ là một khu rừng hoang, khi đó một vị thánh giả Kapil Gautama (tạm dịch: Ca Tỳ Cồ Đàm) đã khuyên thái tử Ikshwaku đến đó để lập nghiệp. Thái tử được mọi người biết qua tên Sakya đã nghiễm nhiên trở thành Sakya Gautama và đặt tên cho vương quốc của mình là Kapilvastu (Ca Tỳ La Vệ). Thái tử Sĩ Đạt Ta đã xuất thân chính từ dòng dõi này. Thái tử đã sinh ra và lớn lên trong nhung gấm lụa là, trong tình yêu thương tuyệt đối của hoàng thân quốc thích, tràn ngập niềm hạnh phúc với vợ đẹp con xinh, sự kính trọng nể vì của toàn bộ tộc Thích Ca (Sakyā), sự hy vọng và ngưỡng mộ của toàn dân kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Để rồi, từ trải nghiệm và chứng kiến những thái cực của cuộc đời, nghèo giàu, khổ đau và hạnh phúc, sự sống mong manh, cái chết vô thường… đã dẫn đến cuộc ra đi vĩ đại, cuộc ra đi vô tiền khoáng hậu, cuộc ra đi làm nên trang sử vàng, chính là sự có mặt của đạo Phật cứu khổ ban vui, vì lợi ích cho vạn loại hữu tình trên hành tinh này.
Một kinh thành chứa đầy kỷ niệm, một kinh thành không thể tách rời Phật giáo, một kinh thành không chỉ là quê hương Đức Phật mà còn là quê hương của bao người con Phật. Càng hình dung trong trí tưởng tượng cho sự huy hoàng tráng lệ của một kinh thành cổ xưa, lòng tôi cảm thấy xót xa, buồn thảm, khi một lần dừng chân nơi này! Giờ đây, trước mắt chúng tôi chỉ là một phế tích: những bức tường dài ngang dọc đổ nát rêu phong, những bụi cây hoang dại mọc um tùm, bao hầm hố gò đống trên lối đi mà không một bàn tay chăm sóc… Phía Tây chỉ còn sót lại nền gạch cũ cùng với tấm bảng xác định vị trí của các nhà khảo cổ. Đối mặt sau của cổng thành phía Tây khoảng hơn một cây số là cửa thành Đông, nơi mà nửa đêm rạng ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch, thái tử Sĩ Đạt Ta đã âm thầm rời bỏ kinh thành đi tìm đạo giải thoát. Bên ngoài cổng thành Đông là cánh đồng phì nhiêu, mọi người cùng với trâu bò làm việc trong nắng ấm thanh bình. Xa xa cách cổng thành Đông khoảng 200 m, có một cái tháp nhỏ, tương truyền rằng, nơi đó chính là chỗ mà con tuấn mã Kiền Trắc đã đứng và chết tại đó sau khi từ giã thái tử trở về lại kinh thành.

Ngài Pháp Hiển đến chiêm bái thành Ca Tỳ La Vệ vào năm 403 sau Tây lịch, đã nhìn thấy toàn vùng này là một rừng hoang cỏ dại, dân cư thưa thớt, và những di tích phế tàn. Một vài tu sĩ khổ hạnh tu tập tại đây và độ 30 gia đình dân chúng đang sinh sống. Ngài đến hỏi thăm các vị tu sĩ về thánh tích này, các vị ấy cho biết toàn vùng này chính là thành Ca Tỳ La Vệ thời xưa, và họ cố ở lại đây để giữ gìn thánh tích này, nhưng không đủ phương tiện phục hưng, đành phải ngắm nhìn nó dưới sự tàn phá của thời gian.

Có nhiều sử liệu ghi lại về sự suy tàn của kinh thành lịch sử này, trong đó có câu chuyện liên quan đến dòng họ Thích. Tương truyền vào thời Đức Phật, vua dòng Ikshvaku tên Prasanjit (Ba Tư Nặc) vì muốn bang giao với dòng họ Thích nên đã cho người đến để cầu hôn. Ngược lại, dòng họ Thích lại cho rằng vua Ba Tư Nặc không phải thuộc dòng Sát Đế Lợi nên không muốn gả công chúa, nhưng vì khiếp phục nước Kosala là một cường quốc nên đã cho Vasbhaktiya, một thị nữ, cải trang làm công chúa về với vua Ba Tư Nặc. Vua Ba Tư Nặc đã phong nàng làm hoàng hậu và không lâu sau Đông cung thái tử Tỳ Lưu Ly được sanh ra. Khi Thái tử Tỳ Lưu Ly trưởng thành và muốn về thăm quê ngoại, bà Vasbhaktiya hết sức cản ngăn, nhưng chàng nhất định đi. Thái tử Tỳ Lưu Ly cũng được tiếp đón theo thể chế của một quốc khách và được cho ngụ tại sứ quán. Khi thái tử ra về thì sứ quán được rửa bằng sữa tươi. Một người hầu của thái tử vì bỏ quên đồ và trở lại sứ quán đã chứng kiến cảnh này về thuật lại cho thái tử. Chàng ta vô cùng tức giận và nguyền rằng không phải chỉ rửa sứ quán mà sẽ rửa cả Ca Tỳ La Vệ bằng máu.

Sau đó chàng đã âm mưu tước ngôi vua nhân dịp nhà vua đi thăm Đức Phật để nghe giảng pháp. Khi vua hay tin này đã phải chạy đi Ma Kiệt Đà để lánh nạn nhưng không may giữa đường băng hà. Thái tử Tỳ Lưu Ly đã ba lần mang quân đi đánh Ca Tỳ La Vệ nhưng hai lần đầu đều bị Đức Phật ngăn cản. Trong lần thứ ba thì chàng đã thành công. Thành Ca Tỳ La Vệ đã rửa bằng máu của dòng họ Thích, chỉ một số ít là thoát chạy đi đến vùng Kathmandu. Ngài Huyền Trang ghi rằng số tử vong lên đến 9.990, cho đến đứa trẻ sơ sinh cũng không thoát khỏi lưỡi gươm quái ác kia.
Từ đó Ca Tỳ La Vệ đã trở thành một nơi hoang dã, dầu vậy vẫn có một số người vì cảm nhớ ân giáo dưỡng của Đức Phật đã đến đó xây đền kỷ niệm. Tuy nhiên không một di tích lịch sử liên quan đến cuộc đời của Đức Phật nào hoang tàn như nơi đây. Có lẽ phải vài mươi năm nữa, Ca Tỳ La Vệ mới trở thành một trung tâm chiêm bái. Dầu vậy, những học giả chiêm bái thời xưa đã không ngại gian lao tìm đến nơi này và giữ lại những kỷ niệm qua nét bút nên chúng ta mới có cơ hội tìm về vết xưa và xin hãy đứng yên nơi đây cho dòng tư tưởng dõi theo những ký sự xa xưa.

DSC03987 by daisy pham, trên Flickr
Từ cổng thành phía Tây này Đức Phật ra đi rời bỏ kinh thành
DSC04010 by daisy pham, trên Flickr

Từ cửa thành Đông, lần theo lối mòn hướng về phương Bắc khoảng 2 cây số chúng ta thấy có hai nền gạch, một lớn một nhỏ nằm trong khu đất trũng dưới mặt đường khoảng 3m. Chúng ta không thể ngờ rằng, hai ngôi mộ được cho là của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Da (Māyā) vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay, mặc dù điều này vẫn đang được nghiên cứu chứng minh về sự thật. Người dân cho biết rằng, ngôi mộ lớn là của vua Tịnh Phạn và ngôi mộ nhỏ là của hoàng hậu Ma Da.

Cách Tilaurakot khoảng 1 km về hướng Tây Nam là vườn cây Nigrodha thuộc làng Kudan, nơi vua Tịnh Phạn hội ngộ với Đức Phật sau 13 năm trời xa cách với biết bao thương nhớ và hy vọng mà phụ hoàng đã dành cho thái tử. Vì vậy, đức vua đã yêu cầu Phật, sau này bất cứ ai muốn trở thành sa môn thì phải được sự chấp thuận của cha mẹ, nếu họ còn sống. Đức Phật chấp nhận lời đề nghị của vua cha. Tại nơi đây, vua Tịnh Phạn đã sắc lệnh cho xây dựng ngôi tịnh xá tên là Nigrodhamma làm nơi tu hành của Đức Phật và cháu đích tôn La Hầu La (Rāhula) khi trở về thăm bổn quốc. Tại ngôi tịnh xá này, Đức Phật đã trải qua 15 mùa an cư và thuyết một số bài kinh tiêu biểu như: Tiểu Kinh Khổ Uẩn (số 14), Kinh Mật Hoàn (số 18) … thuộc Trung Bộ kinh.
 
Last edited:
Không có bảng chú thích thì ai nghĩ rằng đây là mộ vua Tịnh Phạn và hoàng Hậu Maya, cha mẹ Đức phật
DSC04018 by daisy pham, trên Flickr

DSC04016 by daisy pham, trên Flickr
Không hoa, không nhang, không đèn, không người lui tới , hai ngôi mộ hiu quạnh đứng trụ hơn 2500 năm. Thầy đi cùng thấy cảnh tượng này không cầm đươc nước mắt. vừa đọc kinh vừa khóc rưng rưng.
DSC04025 by daisy pham, trên Flickr
 
Boudhanath stupa

Bảo tháp Boudhanath - Kathmandu, Nepal
1131-1046 by daisy pham, trên Flickr

Theo các nguồn tài liệu Phật giáo, Đức Phật nhập niết bàn năm 80 tuổi, di hài của Ngài được hỏa tang nhưng xá lợi thì vẫn còn và được phân phát cho nhiều bộ lạc và vương quốc khác nhau. Những người theo đạo Phật và muốn tôn vinh người đã sáng lập ra đạo Phật đã xây dựng những tượng đài, bảo tháp để giữ gìn những gì còn lại của Ngài tại Đại Bảo tháp Boudhanath,
Boudhanath Stupa tiếng Phạn, có nhiều danh xưng khác nhau Boudha, Bauddhanāth hoặc Bauddhanath hoặc Khāsa Caitya, tiếng Tây Tạng: Nằm cách trung tâm, vùng ngoại ô phía Đông bắc thủ đô Kathmandu, Nepal khoảng 11 km (6,8 dặm), biểu tượng Mandala khổng lồ của ngôi Đại Bảo tháp, một trong những Bảo tháp hình cầu lớn nhất ở Nepal, một trong những tòa bảo tháp lớn nhất thế giới.
Đại Bảo tháp Boudhanath màu trắng nổi bật với chiều cao 36m và tồn tại từ thế kỷ thứ V, chung quanh tòa tháp là một vành đai với 108 hình ảnh Phật, tứ diện của tòa tháp có chạm khắc đôi mắt đức Phật nhìn xa bốn phương tám hướng. Viền quanh ngôi tháp còn có 108 hình tượng hóa thân của Bồ-tát Quan Thế Âm, vị Bồ-tát gắn liền với lịch sử của ngôi bảo tháp. Những luân xa cầu nguyện xung quanh ngôi tháp cũng được khắc câu thần chú của Bồ-tát Quan Thế Âm, Om Mani Padme Hum
Đại Bảo tháp Boudhanath được xây dựng trên tuyến đường thương mại cổ đại từ Nepal đến Tây Tạng, tại địa điểm mà các thương nhân hay dừng chân để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Nơi đây được xem là trung tâm của Phật giáo Tây Tạng ở Nepal, đồng thời cũng là nơi rất nhiều người tị nạn từ Tây Tạng định cư trong nhiều thập kỷ và là điểm thu hút khách du lịch trên toàn thế giới.
Các nguồn tin Tây Tạng cho rằng một gò đất tại khu vực này đã được khai quật vào cuối những năm 15 hay đầu thế kỷ 16 và xương của vua Aṃshuvarmā (605-621) được phát hiện ở đó. Tuy nhiên, hoàng đế Tây Tạng, Trisong Detsän (Trị vì: 755-797) cũng thường liên quan đến việc xây dựng ngôi Đại Bảo Tháp Boudhanath.

Năm 1979, Đại Bảo tháp Boudhanath đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Sau khi Bắc Kinh cưỡng chiếm Tây Tạng, năm 1959, nhiều người dân Tây Tạng đã đến định cư ở khu vực xung quanh Đại Bảo tháp Boudhanath. Và ngày nay, cộng đồng người Tây Tạng phát triển khá lớn mạnh ở khu vực lân cận ngôi Đại bảo tháp Boudhanath, cùng với đó là sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng, nhiều cơ sở tự viện và các trung tâm nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng được thành lập.
Nguồn: phatgiao.org.
DSC03457 by daisy pham, trên Flickr

DSC03489 by daisy pham, trên Flickr

Kinh Phạn bay phấp phới trên đỉnh Stupa
DSC03526 by daisy pham, trên Flickr
 
Ngày đến đây là trước lể Phật Đản Jayanty 2 ngày, nên được chứng kiến buổi lễ long trọng chuẩn bị cho lễ, Các nhà sư Tạng rước lễ đi vòng quanh bảo tháp
DSC03535 by daisy pham, trên Flickr

DSC03541 by daisy pham, trên Flickr

DSC03543 by daisy pham, trên Flickr

DSC03546 by daisy pham, trên Flickr

DSC03554 by daisy pham, trên Flickr
DSC03556 by daisy pham, trên Flickr
DSC03560 by daisy pham, trên Flickr
DSC03561 by daisy pham, trên Flickr
DSC03563 by daisy pham, trên Flickr
 

Hỏi Phượt

Forum statistics

Threads
59,133
Bài viết
1,173,915
Members
191,955
Latest member
creationinfoways
Back
Top