Rượu ngâm bìm bịp:
Dân Nam coi rượu bìm bịp là một rượu quí vì trị nhức mỏi và cứng gân cốt. Theo cây bút đồng quê miền Nam Lê Bảo Trân cho biết, chim bìm bịp ( Centropus sinensis thuộc gia đình Cuckoos) thường làm tổ trên những cây bần hay bụi dừa nước, lông màu xanh, đầu mầu đà, ăn cá, mỗi khi nước lớn thường kêu như câu ca dao:
Bìm bịp quê nước lớn anh ơi,
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
Dân quê thường hay mò vô tổ của bìm bịp, bẻ gẫy chân những bìm bịp non xong rồi rình cho mẹ chúng tha những cây thuốc về trị bệnh để bắt chim non về ngâm rượu vì người ta tin tưởng rằng trong bọc chứa của chúng còn chứa những cây thuốc có đặc tính tiếp cốt thần kỳ vừa được bìm bịp mẹ mớm cho.
Ruợu ngâm bao tử nhím:
Nhím là loài hay bới đào để ăn rễ những cây thuốc mọc sâu dưới đất, nên dân miền Nam cũng bắt nhím mổ lấy bao tử ngâm rượu cho rằng rất tốt. Con nhím chữ Nho là Hào trư ( nhím chồn) và Thích vị ( nhím chuột), nhưng tôi tra cứu trong Tuệ tĩnh toàn tập của thiền sư Nguyễn Bá Tĩnh ( Viện Y Dược học dân tộc - TP/HCM) thì không thấy nói đến dùng bao tử nhím mà chỉ nói thịt của nhím chồn tiêu cổ trướng ( bụng báng nước), trị nhiệt phong ; còn da nhím chuột ( nhím gai)giết được trùng bệnh trĩ, đau lưng, đau bụng (nguyên nhân?) chứng bôn đồn (?). Sách thuốc Tầu không thấy nói về rượu ngâm bìm bịp và bao tử nhím như Việt Nam.
Rượu ngâm chuột xạ con
Theo Lê Bảo Trân, miền Nam có người ngâm chuột xạ con mà không nói trị bệnh gì. Tôi chú ý rằng cuốn Từ điển về trà rượu của Tầu ( TQTTTĐ
dẫn trên không thấy nói đến ruợu bìm bịp, bao tử nhím ... có lẽ là đặc thù của dân miền Nam Việt . Phải chăng đất Tầu không có sẵn những thú cầm điểu này. Về loại rắn, rít thì bên Trung quốc, miền Hoa Bắc lạnh lẽo hoặc rất hiếm hay không có, còn vùng Giang Nam - cái nôi phát sinh giống Bách Việt - nhất là Quảng Đông, Quảng Tây với khí hậu loại bán-nhiệt-đới thì lại tương đối sẵn những thú vật như ta nên họ mới có chuyện ăn rắn, chó và chuột như ta thấy qua những sách và phim ảnh Trung Quốc. Về chuột, có món Trúc Thử ( chuột ăn rễ bụi tre). Còn rượu thuốc vùng Hoa Nam thì ê hề rượu rắn, rượu tắc-kè, rượu cà cuống ( Long sất tửu - rượu rận rồng!)...
Ruợu ngâm Nhung
Thông thường phối hợp với Sâm. Sâm đây là Nhân sâm mà xứ ta không có nhưng mua tại tiệm thuốc bắc.
Còn Nhung là cái gạc non mọc ra khi cái gạc già rụng đi. Theo Đỗ Phong Thuần trong cuốn Việt Nam dược vật thực dụng, người ta phân biệt Nhung theo thời điểm mọc sau: Nếu mọc vào tiết Hạ chí nghĩa là Nhứt âm sinh thì gọi là Mê Nhung nên bổ phần âm huyết; còn mọc vào tiết Đông chí nghĩa là Nhứt dương sinh thì gọi là Lộc Nhung nên bổ phần Dương khí. Điều phân biệt trên thuộc lãnh vực quá chuyên môn, người thường không ai nói được. Đại khái, Mê Nhung lớn hơn Lộc Nhung, sắc đen xám hay vàng mơ Còn về phẩm chất, thường tùy theo xuất xứ: gạt vùng Chợ Bờ ( Bắc phần) tốt 10, vùng Thanh hóa tốt 8, vùng Lào thì xấu, vùng Đà lạt vừa dùng. Ở Tàu bán ra phần lớn mua từ Thái Lan cũng không được tốt. Nói chung, Nhung về trị liệu thì tư âm bổ thận, chữa bệnh âm hư lao tổn và những chứng thuộc phần huyết hoặc gân xương lưng gối đau nhức. Ruợu Lộc Nhung của Tàu ( kén chọn hươu ở Liễu Ninh hay Cát lâm) thường ngâm thêm gân hươu, các vị thuốc bắc như bắc kỳ, thục địa và nhiều vị khác. Phân chất Lộc Nhung thấy những thành phần sau: Steroids, Cholesterol; về chất béo lipids có proteolipids, ganglioside, sphingomyeline; và muối khoáng thì có Calcium phosphate, Calcium carbonate.
Rượu Hổ cốt
Theo Đỗ Phong Thuần thì về cách chế, lấy một bộ xương ống chân hổ sao vàng, giã nhỏ rắc men ủ thành rượu; hoặc cho vào trong cái bao bằng vải rồi dầm rượu. Công dụng: Hổ cốt tửu chữa đau trong ống chân, nhức các khơp xương và chữa thận, bàng quang lạnh. Theo Kinh nghiệm phương, toa Hổ cốt Mộc qua tửu rất thông dụng. Phân chất Hổ cốt thì thấy nhiều Kalium carbonate hay muối bồ-tạt. Trung Quốc trà tửu từ điển nói rằng bào chế Hổ cốt tửu Bắc kinh ( chắc là rượu ngự dụng), ngoài xương ống chân cọp ( hĩnh cốt) là chính, còn ngâm thêm đủ thứ như nhân sâm, lộc nhung, xạ hương, hồng hoa, mộc qua, nguyên hoạt, ngưu tất... cọng cả thẩy 147 vị thuốc bắc.
Rượu ngâm rùa
Rùa sống lâu đến 500 năm. dù nhịn đói hai ba tháng cũng không chết. Chế Qui nhục tửu bằng cách lấy thịt rùa hòa lẫn với men, rồi ủ cho thành rượu. Ruợu này chữa chứng ho lâu năm, chứng phong co quắp tay chân hay bại xuội. Mu rùa là Qui bản trị các chứng xích đái, bạch đái, thấp nhiệt lở ở hạ bộ, chứng trĩ và thóp trẻ con không liền được ( Đỗ Phong Thuần). Phân chất mu rùa thấy nhiều muối Calcium. Ngoài ra, sách Tầu có nói về Qui giao tửu đã dùng mu rùa đen ở Động dình hồ nấu thành cao, rồi ngâm rượu với câu kỷ, kim anh tử, đảng sâm, đương qui ; có tác dụng tư âm, bổ thận, cường thân tráng thể . Qui Lộc tửu rất quí lại dùng mu rùa (qui bản), nhung hươu và 10 vị thuốc khác mà chế ra.
Rượu cắc-kè:
Tiếng Nam phân biệt cắc-kè (hay tắc-kè) với cắc-ké: Theo Việt Nam tự điển của Lê văn Đức & Lê ngọc Trụ, cắc kè là loài bò sát dài độ 20 cm, bụng to đuôi ngắn, sống trong kẹt hóc, không ưa ánh sáng, thường kêu ban đêm ( có những loại cắc kè bông, cắc kè lửa) Danh từ Cắc kè đôi là lời biếm nhẽ một cặp trai gái đang tình tự. Còn cắc-ké là loài bò sát mình ba góc thon dài, gáy có gai, đuôi dài, mình màu xanh, tím vàng đỏ tùy theo chỗ người đứng trông, sống trên cây cối, ăn sau bọ, đẻ trứng thật nhiều dưới đất sau. ( Cắc-ké lục chốt chỉ hạng thấp thỏi chầu rìa).
Cắc- kè có tên chữ nho là cáp- giới đọc theo âm Tàu là Ke-Chieh ( cơ chia), kỳ thực là tiếng kêu khi chúng muốn bắt cặp, con đực kêu cắc, con cái đáp kè. Sách thuốc Tầu nói cắc kè rất nhiều ở Quảng đông và Quảng tây. Hiệu lực làm thuốc của cắc kè là phải có đủ nguyên cái đuôi; khi người ta rình bắt nó , nó cắn đuôi bỏ chạy. Khi cắc kè đực cái bắt cặp thì chúng ôm nhau sát, rồi cùng té xuống đất mê man không còn biết trời trăng, khó mà gỡ ra được. Do đó, người ta mới bắt cả cặp bỏ vô rượu, hấp rồi phơi khô để bán là thuốc khích dâm cường dương. Cắc kè vị mặn, tính bình, hơi độc, công dụng khai phế khí, chữ hen suyễn, ho lao, lợi thủy thông kinh, chữa què gẫy. Mắt nó độc, nhưng đuôi lành.. Khi dùng bỏ mắt và kỳ trên sống lưng, tẩm rượu nướng khô mới dùng. Con nào đứt đuôi thì dược lực kém không nên dùng.
Theo sách Trung quốc Trà Tửu từ điển (TQTTTĐ ), Cáp giới tửu đủ 2 con đực cái dính cặp mới thiệt tốt, người ta: dùng cắc kè còn tươi sống phối hợp với lộc nhung, đảng sâm, câu kỷ tử , viên nhục, huỳnh tinh, hoài sơn, hắc táo, tỏa dương, đương qui, bắc kì, nhục thung dung, xuyên khung... cùng vài thứ linh tinh khác ngâm trong rượu gạo thứ thiệt. Hương vị rượu rất thuần hòa, hiệu lực nuôi âm, bổ thận, bổ huyết dưỡng nhan ( bổ máu và làm tăng sắc đẹp ở phụ nữ
BS Lê Văn Lân
http://www.khoahoc.net/baivo/levanla...aruouthuoc.htm