Điểm đến du lịch “văn hóa – lịch sử”: Giồng Trôm - đất thép thành đồng
Huyện Giồng Trôm nằm khoảng giữa cù lao Bảo, bắc giáp huyện Bình Đại, có ranh giới chung sông Ba Lai, đông giáp huyện Ba Tri, tây giáp thành phố Bến Tre và huyện Châu Thành, nam giáp huyện Mỏ Cày Nam, có ranh giới chung sông Hàm Luông. Địa danh Giồng Trôm được cấu tạo theo cách: đặc điểm của đất cộng với tên thực vật – một con giồng có cây trôm mọc - giống như sự cấu tạo các địa danh Giồng Tre, Giồng Mít, Giồng Dứa. Như vậy, cái tên Giồng Trôm xuất hiện trên đất Bến Tre đã từ lâu.
Giồng Trôm là huyện có diện tích đất đai rộng đứng hàng thứ 5 so với các huyện khác của tỉnh Bến Tre. Đất đai nơi đây được cấu tạo từ phù sa của hai con sông lớn Ba Lai và Hàm Luông, lại được tưới tắm bởi một mạng lưới sông rạch chằng chịt, do vậy mà Giồng Trôm có thế mạnh của một nền kinh tế nông nghiệp đa dạng. Diện tích vườn dừa những năm gần đây tuy có giảm nhưng vẫn đứng hàng thứ hai của tỉnh.
Huyện Giồng Trôm từng có thời kỳ mang tên là quận Tán Kế, để ghi nhớ tên người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở vùng Ba Châu. Cho nên cũng có thể coi huyện Tán Kế là tiền thân của huyện Giồng Trôm sau này.
Mảnh đất này có nhiều di tích lịch sử trong hai thời kỳ kháng chiến và là nơi sản sinh nhiều vị tướng lĩnh danh tiếng như: tướng Đồng Văn Cống, Nữ tướng Nguyễn Thị Định, Đại tướng Lê Văn Dũng, tướng Võ Viết Thanh, tướng Nguyễn Hữu Vị, tướng Trần Minh Tích, tướng Trần Văn Nhiên, tướng Võ Khắc Sương, tướng Nguyễn Văn Ngai, tướng Nguyễn Hoàng, tướng Hồ Quốc Việt. Nơi đây còn là một nơi lưu giữ những tài sản tinh thần liên quan đến nhà thơ Phan Văn Trị và là nơi đã nuôi, che chở cho đồng chí cố Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Lê Duẩn trong thời gian hoạt động cách mạng (11/1955 – 3/1956).
Các điểm tham quan du lịch tại Giồng Trôm
* Khu tưởng niệm Nguyễn Thị Định:
Khu lưu niệm nữ tướng Nguyễn Thị Định tọa lạc tại ấp Phong Điền, xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm cách thành phố Bến Tre khoảng 8,5 km, nằm trên tỉnh lộ 885 về hướng Đông.
Năm 1936, Bà bắt đầu tham gia cách mạng (lúc này chỉ mới 16 tuổi). Năm 1946 bà Nguyễn Thị Định là thành viên trong đoàn cán bộ của Khu 8 vượt biển ra Bắc gặp Đảng, gặp Bác Hồ để báo cáo tình cách mạng miền Nam và xin chi viện vũ khí. Bà tuy ít tuổi nhưng mưu trí nên được phân công làm thuyền trưởng trong chuyến tàu đầu tiên chở đầy vũ khí về đến nơi an toàn. Từ đó tên tuổi của bà gắn liền với đường Hồ Chí Minh trên biển. Sau hiệp định Giơnevơ bà Nguyễn Thị Định được phân công ở lại miền Nam và được chỉ định vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy bí mật (tỉnh Bến Tre) cùng nhiều đồng chí khác.
Bà cùng Tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo nhân dân nổi dậy phá thế kìm kẹp của địch tại ba xã: Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp (Mỏ Cày) thành công vào ngày 17/01/1960 mở đầu cho cao trào đồng loạt nổi dậy trong toàn tỉnh và cả miền Nam lúc bấy giờ.
Tháng 5/1961 bà Nguyễn Thị Định là Khu ủy viên Khu 8, với nhiều kinh nghiệm trong chỉ huy thắng lợi phong trào đoàn kết ở Bến Tre, Bà tiếp tục xây dựng và phát huy có hiệu quả sức mạnh của đội quân tóc dài làm cho quân thù khiếp sợ. Đầu năm 1965 bà là Phó Tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, ủy viên quân ủy Miền Nam Việt Nam phụ trách phong trào du kích chiến tranh trong đó có nhiệm vụ tiếp tục củng cố và phát triển đội quân tóc dài làm nồng cốt trong lực lượng đấu tranh chính trị, trực diện bổ trợ cho quân chủ lực, quân địa phương tiêu diệt sinh lực địch.
Tháng 4/1974 Nguyễn Thị Định với quân hàm thiếu tướng là Trưởng đoàn đại biểu Mặt trận Quân đội, Hội Phụ nữ giải phóng Miền Nam ra thăm Miền Bắc, sau đó cùng đoàn dự Đại hội Phụ nữ Toàn quốc lần thứ 4 và đi thăm các nước trên thế giới.
Cô ba Định có 56 năm hoạt động cách mạng kiên cường, liên tục đã gắn bó với những chặng đường đấu tranh vô cùng oanh liệt của dân tộc. Với sự hy sinh cao cả đó bà được nhận nhiều huân, huy chương cao quý trong đó có Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Thế giới, giải thưởng hòa bình quốc tế Lê Nin, Huân chương Giron của nhà nước Cuba và Nhà nước nước CHXHCNVN truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào 30/8/1995.
Để tri ân công lao đóng góp của bà đối với quê hương, đất nước ngày 26/12/2000 nhân dân Bến Tre đã khởi công xây dựng đền thờ Bà tại quê nhà và đưa vào phục vụ từ ngày 20/12/2003. Khu vực đền thờ rộng gần 15.000m2, cổng được xây dựng theo dạng cổng tam quan của đình làng nông thôn Việt Nam, trụ rào theo kiểu thức thống nhất của cổng, rào bằng thép thông thoáng có hoa văn trang trí ở phía trước. Đền thờ cao ráo, thoáng mát xây theo kiểu tứ trụ, cột tròn mái hai tầng chồng diềm uốn cong ở 4 góc, diềm mái đầu cột, đầu hồi có trang trí họa tiết. Đền có 3 cửa ra vào chung quanh có hành lang rộng. Trong đền thờ, tượng đồng chân dung vị nữ tướng trong trang phục áo bà ba khăn rằn quấn cổ, hình ảnh được người dân nhớ nhất khi nghĩ đến cô Ba được đặt trang trọng trên bệ đá hoa cương. Trước đền là sân lễ, cây kiểng được trồng chung quanh các công trình kiến trúc, các trục đường đi bộ nối với những mảng cỏ xanh đệm ở phía trước tạo cho khu vực thêm vẻ mỹ quan. Ngoài đền thờ còn có phòng trưng bày hiện vật, hình ảnh, tư liệu để minh họa về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của bà. Đây là một trong những công trình văn hóa điểm thêm một dấu son trong công tác giáo dục truyền thống lịch sử của tỉnh nhà. Hằng năm vào ngày 28/7 (âm lịch) lễ giổ của bà được tổ chức long trọng tại đây để tưởng nhớ công lao một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, của nhà nước, một vị tướng quân gái của dân tộc Việt Nam.
* Di tích lịch sử Đền thờ và mộ thờ Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng:
Nguyễn Ngọc Thăng quê làng Mỹ Thạnh, huyện Tân An, nay là xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm. Năm 1848 Ông giữ chức Lãnh binh trong quân đội dưới triều Thiệu Trị. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đem binh ứng cứu, nhưng chưa kịp đến nơi thì thành bị hạ. Ông được lệnh đóng giữ phòng tuyến Kỳ Hòa, ở đồn Cây Mai. Do lực lượng quá chênh lệnh, sau một thời gian cầm cự, ông rút quân về Gò Công, cùng phối hợp chiến đấu với nghĩa quân Trương Định. Ngày 27-6-1866, ông bị trúng đạn, tử thương trong một trận giao chiến kịch liệt với Pháp. Thi hài ông được đưa về quê bằng ghe, quàn tại một con giồng nhỏ cách chợ Mỹ Lồng gần 1.000m. Sau khi ông chết, vua Tự Đức có phong sắc, áo mũ và một thanh gươm, nhưng vì chiến tranh nên những di vật này đặt ở đền thờ ông ở ấp Giồng Keo bị hư hỏng, thất lạc.
Đền thờ Ông trước đây là đình làng, thờ Thành hoàng bổn cảnh.Vào năm 1984, nhân dân địa phương đem bài vị của ông vào đình thờ như một vị thần đã có nhiều công lớn đối với đất nước trong việc chống ngoại xâm. Từ đó đình trở thành Đền thờ lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng tọa lạc tại ấp Chợ, xã Mỹ Thạnh, nằm bên cạnh đường tỉnh 885, cách thành phố Bến Tre 6,5 km. Ngày giỗ ông hàng năm là ngày rằm tháng 5 âm lịch.
* Di tích cuộc thảm sát 286 người của quân Pháp ở ấp cầu Hòa:
Di tích tọa lạc tại ấp Cầu Hòa - xã Phong Nẫm - Giồng Trôm, cách thành phố Bến Tre 9 km theo đường bộ. Nơi đây, vào lúc 5 giờ sáng ngày 10-01-1947 (ngày 19 tháng chạp năm Bính Tuất), hai trung đội lính lê dương do tên thiếu úy Tây lai Leon Leroy chỉ huy theo đường sông từ An Hóa theo kênh Chẹt Sậy đổ bộ lên ấp Cầu Hòa và ấp Nhì càn quét vì nghi ngờ có Việt Minh đang trú đóng. Không tìm ra một chứng tích nào về Việt Minh, chúng quay ra nổ súng bừa bãi vào những người dân vô tội, giết chết 286 người, gồm phần lớn là phụ nữ, trẻ em và người già. Chúng đốt cháy hơn 100 ngôi nhà. Nhiều xác chết bị cháy thiêu. Có gia đình bị giết đến 17 người, có gia đình bị giết sạch không còn người nào. Đây là cuộc tàn sát có quy mô nhất và dã man nhất ở Bến Tre trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).
* Di tích nghệ thuật Đình Bình Hòa:
Đình Bình Hòa nằm cạnh đường 885, cách thành phố Bến Tre 16km, có thể đến bằng đường bộ hoặc đường thủy. Đình Bình Hòa được xếp trong danh mục 20 ngôi đình lớn và đẹp của tỉnh Bến Tre, là ngôi đình cổ nhất ở cù lao Bảo. Những tài liệu còn lưu giữ ngôi đình tồn tại đến nay gần 200 năm. Đình được sắc phong vào năm Tự Đức thứ 6 (1852). Ngôi đình có quy mô kiến trúc tương đối lớn còn giữ được đến ngày nay, không phải là dạng nguyên sơ của nó, mà đã được xây cất lại vào năm 1903. Hiện tại còn hơn 100 hiện vật điêu khắc gỗ tinh vi, sắc sảo, gồm những bức hoành phi, liễn đối, bao lam, phù điêu, hương án, đồ lễ bộ… được lưu giữ. Hằng năm vào rằm tháng giêng (âl) diễn ra lễ cúng đình lần thứ nhất và vào rằm tháng chạp (âl) lần thứ hai.
Về mặt kiến trúc trang trí bên trong cũng như những công trình nghệ thuật khác ở bên ngoài của đình, vẫn là sự kết hợp yếu tố nghệ thuật cung đình với nghệ thuật tôn giáo và được dân gian hóa ở mức độ nhất định. Đó là những đề tài lân, long, quy, phụng, chim muông, sen-cua, trúc-tước, nho-sóc, bần-cò v.v…
Đình Bình Hòa còn là chứng tích ghi nhớ những tội ác của đội quân UMDC của Léon Leroy (thời KCCP) và đặc biệt bọn “công an Ngô Quyền” trong những chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” đẫm máu dưới thời Ngô Đình Nhiệm.
Còn tiếp ...
TTXTDL Bến Tre