Mình xin ra ở Bến Tre , nhưng mình xem Bình Định như quê hương thứ 2 của mình . Yêu lắm những con người nơi ấy .
Cách đây 2 tháng mình có làm 1 chuyến ra Bình Định 6 ngày , nhưng chủ yếu là đi thăm làng nghê và đi Hải Đăng .
Hôm nay , mình xin giới thiệu đến các bạn 1 số làng nghề truyền thống của Bình Định qua cách nhìn của 1 dân phượt a-ma-ter. Hiiii !!!!
Thông tin này là mình mới cập nhật từ chuyến đi cách đây 2 tháng , nên khi các bạn đi có thể check lại 1 tí nhé .
1. Làng Nón Gò Găng
Làng nón Gò Găng hay còn gọi là làng nón ngựa Gò Găng .
Đã là người Bình Định thì không ai không biết về hình ảnh chiếc nón ngựa Gò Găng đã một thời vang vọng, đi vào ca dao truyền thuyết dân gian: Một cô gái đã trao cho người mình yêu chiếc nón Gò Găng trước khi chàng xuống thuyền ra khơi, một kỷ vật của người ở lại.
"Gò Găng có nón chung tình .
Ở đây có thiếp một dạ với mình mình ơi"
……………………
“Em về mua vải chợ Gồm
Gò Găng mua nón phiên Chàm anh vô"
(Ca dao Bình Định)
Ở nước ta, hình ảnh chiếc nón đã gợi lên phong cách trang phục cổ truyền của người Việt. Đặc biệt là hình ảnh những chiếc nón quai thao của các cô gái xứ Bắc, nón bài thơ cô gái Huế, nón ngựa Gò Găng của các cô gái Bình Định.
Thực ra thị tứ Gò Găng là địa điểm trao đổi mua bán nón ngựa có từ lâu đời. Xưa kia, chợ nón thường nhóm họp từ 2 giờ sáng đến khi trời sáng, dưới những ngọn đèn dầu trong đêm. Xa xa vọng lại những câu hò đối đáp từ những người buôn bán nón, tạo nên chất trữ tình của phiên chợ nón Gò Găng. Nón ngựa được sản xuất rất nhiều nơi ở huyện An Nhơn và Phù Cát, đặc biệt là từ Kiều Đông, Kiều Nguyên, Phú Gia ngày nay thuộc địa phận xã Cát Tường huyện Phù Cát, rồi được chuyển về bán tại chợ Gò Găng nên tục gọi là nón Gò Găng.
Ngày xưa, nón chỉ dành riêng cho giới phong lưu, đài các. Đặc biệt những chiếc nón ngựa bịt bạc, chạm trổ hình rồng phượng trên đỉnh nón chỉ được dùng cho giới quan lại, địa chủ; còn thường dân thì dùng nón lá buôn, nón chỉ lác. Chúng ta hãy thử hình dung lại viễn cảnh mà các lý trưởng, chánh tổng ngồi trên lưng ngựa, đội nón ngựa bịt bạc trên các nẻo đường làng trong những năm trước 1945 ở các làng quê Bình Định.
Ngày nay, nghề làm nón ngựa còn được duy trì ở Phú Gia, cách Gò Găng khoảng 5 km về hướng đông. Dưới lũy tre làng có một xóm nhà khoảng chừng 20 hộ tham gia nghề chằm nón ngựa. Một chiếc nón ngựa thường qua bốn công đoạn:
- Tạo sườn mê: Cây giang đem phơi khô, chẻ thành những sợi nhỏ mỏng như sợi cước. Cách thức đan nang theo kiểu đan giỏ, các lỗ nang có hình lục giác tạo thành một miếng mê lớn.
- Thắt nang sườn: Đặt miếng mê lên khuôn nón mẫu, khâu vành nang dưới cùng để tạo sườn hình nón. Tiếp đến là khâu sườn đứng và sườn ngang bằng các sợi giang có kích cỡ như sợi tăm. Hai công đoạn làm sườn nón này phải do những người thợ chuyên nghiệp thực hiện để cho những người thợ làm nón bình thường thực hiện tiếp các công đoạn sau.
Thêu hoa văn trên sườn: Thông thường được thêu hoa văn theo các đề tài long, lân, quy, phụng; lưỡng long tranh châu; mai lan cúc trúc; câu thơ; câu đối hoặc những cảnh vật trên nang sườn.
- Công đoạn cuối cùng là lợp lá chằm chỉ. Lá kè tươi mua về sẽ được xử lý công phu, tướt bỏ sống lá, phơi khô trong bóng râm, đặt trên chậu lửa và lồng tre để xông lá cho chín, sau đem ra ngoài trời phơi sương, hơ lửa để vuốt cho lá được thẳng, phẳng. Người thợ dùng kéo chuyên dụng có bản mỏng, lưỡi dài để cắt lá thành từng miếng nhỏ theo chiều cao nón. Xếp chồng mép mí lá bủa (xòe) đều xung quanh sườn nón từ đỉnh xuống. Chằm (khâu) lá vào sườn nón, chỉ chằm nằm dưới mí lá nên nhìn bên ngoài không thấy đường chằm. Chằm xong, người thợ cắt bỏ những sợi chỉ thừa dính trên bề mặt nón và không quên trang trí một đùm chỉ ngũ sắc ở đỉnh nón.
Mỗi công đoạn, thường được chuyên môn hóa cho từng người trong gia đình. Và mỗi một gia đình như là một công xưởng có bộ máy điều hành sản xuất. Nguyên liệu dùng làm nón là cây giang làm sườn, lá kè (cọ) làm lá lợp nón, cây dứa (thơm tàu) thì chải ra làm chỉ. Dụng cụ để sản xuất gồm lồng tre (để sấy khô lá kè), kéo chuyên dụng (cắt lá kè), dao vuốt (chẻ) nang sườn, bàn chốt nang (có những lỗ tròn nhiều kích cỡ khác nhau để tướt nang tròn đều), kim chuyên dụng chằm nón, khuôn nón mẫu. Ngày nay chỉ được thay thế bằng cước mịn, còn giang, cọ thông thường thì được lấy từ vùng núi Vân Canh.
Nhân một chuyến đi công tác về Phú Gia, chúng tôi đã tận mắt nhìn thấy những thao tác làm nón ngựa ở đây, từ những người già đến trẻ em thiếu niên trong gia đình đều có thể tham gia vào một phần của các công đoạn làm nón với thời gian rảnh rỗi. Được biết nhà cụ Đỗ Thị Nga là một trong những gia đình có truyền thống chằm nón lâu đời, cụ đã ở tuổi 80 nhưng cũng tham gia ở công đoạn sườn mơ. Cụ cho biết gia đình cụ làm nghề này có từ thời xa lắm rồi, nhưng không biết có từ bao giờ và ai là thủy tổ của nghề. Chỉ biết, khi dòng họ lập nghiệp ở đây thì đã có truyền thống chằm nón, nhưng lúc ấy chắc chắn là không phải hình thể của chiếc nón ngựa ngày nay. Phải chăng nón ngựa là một sản phẩm của quá trình hình thành làng xã cổ truyền người Việt ở đây.
Với sự phát triển của đất nước hiện nay, một làng nông nghiệp như Phú Gia lại có được làng nghề truyền thống chằm nón ngựa; một nghề phụ nhưng thu nhập không phải là phụ, nếu ở đó có những đơn đặt hàng lâu dài và việc giới thiệu sản phẩm nón ngựa cổ truyền đối với khách du lịch được khởi sắc.
P/s : Mình lấy nguồn của báo chí .
Còn thông tin dưới đây là của mình .:
Chúng mình di chuyển từ k/s trên TP. Quy Nhơn vào lúc 3h sáng , đi ra thị trấn Bình Định chạy thêm 5km nữa là tới chổ nhóm bán nón , ở đó người ta đốt đèn hột vịt mà bán , ánh đèn dầu leo lét .
Người mua trả giá người bán . Ép giá cũng có nhưng không nhiều . Cứ 10 ngày họ sẻ đem ra chợ bán 1 lần . Và mua vật liệu mang về làm , có bán nón thì sẻ có người bán tre , nứa và các dụng cụ làm nón .
Chợ được nhóm hàng ngày và từ lúc 3h30' khuya cho đến 5h sáng là dẹp tiệm .
P/s : 1 số hình ảnh cho các bạn xem chơi để hiểu hơn nét văn hoá có từ lâu xứ Bình Định .
Cả đoàn lúc 3h sáng ở TP.Quy Nhơn
Báo hiệu cho đoàn là đã tới nơi cần tới .
Khung cảnh mua và bán nón
Dùng đèn dầu xem nón có đẹp không , đường chằm có mướt tay không ?
Cách đây 2 tháng mình có làm 1 chuyến ra Bình Định 6 ngày , nhưng chủ yếu là đi thăm làng nghê và đi Hải Đăng .
Hôm nay , mình xin giới thiệu đến các bạn 1 số làng nghề truyền thống của Bình Định qua cách nhìn của 1 dân phượt a-ma-ter. Hiiii !!!!
Thông tin này là mình mới cập nhật từ chuyến đi cách đây 2 tháng , nên khi các bạn đi có thể check lại 1 tí nhé .
1. Làng Nón Gò Găng
Làng nón Gò Găng hay còn gọi là làng nón ngựa Gò Găng .
Đã là người Bình Định thì không ai không biết về hình ảnh chiếc nón ngựa Gò Găng đã một thời vang vọng, đi vào ca dao truyền thuyết dân gian: Một cô gái đã trao cho người mình yêu chiếc nón Gò Găng trước khi chàng xuống thuyền ra khơi, một kỷ vật của người ở lại.
"Gò Găng có nón chung tình .
Ở đây có thiếp một dạ với mình mình ơi"
……………………
“Em về mua vải chợ Gồm
Gò Găng mua nón phiên Chàm anh vô"
(Ca dao Bình Định)
Ở nước ta, hình ảnh chiếc nón đã gợi lên phong cách trang phục cổ truyền của người Việt. Đặc biệt là hình ảnh những chiếc nón quai thao của các cô gái xứ Bắc, nón bài thơ cô gái Huế, nón ngựa Gò Găng của các cô gái Bình Định.
Thực ra thị tứ Gò Găng là địa điểm trao đổi mua bán nón ngựa có từ lâu đời. Xưa kia, chợ nón thường nhóm họp từ 2 giờ sáng đến khi trời sáng, dưới những ngọn đèn dầu trong đêm. Xa xa vọng lại những câu hò đối đáp từ những người buôn bán nón, tạo nên chất trữ tình của phiên chợ nón Gò Găng. Nón ngựa được sản xuất rất nhiều nơi ở huyện An Nhơn và Phù Cát, đặc biệt là từ Kiều Đông, Kiều Nguyên, Phú Gia ngày nay thuộc địa phận xã Cát Tường huyện Phù Cát, rồi được chuyển về bán tại chợ Gò Găng nên tục gọi là nón Gò Găng.
Ngày xưa, nón chỉ dành riêng cho giới phong lưu, đài các. Đặc biệt những chiếc nón ngựa bịt bạc, chạm trổ hình rồng phượng trên đỉnh nón chỉ được dùng cho giới quan lại, địa chủ; còn thường dân thì dùng nón lá buôn, nón chỉ lác. Chúng ta hãy thử hình dung lại viễn cảnh mà các lý trưởng, chánh tổng ngồi trên lưng ngựa, đội nón ngựa bịt bạc trên các nẻo đường làng trong những năm trước 1945 ở các làng quê Bình Định.
Ngày nay, nghề làm nón ngựa còn được duy trì ở Phú Gia, cách Gò Găng khoảng 5 km về hướng đông. Dưới lũy tre làng có một xóm nhà khoảng chừng 20 hộ tham gia nghề chằm nón ngựa. Một chiếc nón ngựa thường qua bốn công đoạn:
- Tạo sườn mê: Cây giang đem phơi khô, chẻ thành những sợi nhỏ mỏng như sợi cước. Cách thức đan nang theo kiểu đan giỏ, các lỗ nang có hình lục giác tạo thành một miếng mê lớn.
- Thắt nang sườn: Đặt miếng mê lên khuôn nón mẫu, khâu vành nang dưới cùng để tạo sườn hình nón. Tiếp đến là khâu sườn đứng và sườn ngang bằng các sợi giang có kích cỡ như sợi tăm. Hai công đoạn làm sườn nón này phải do những người thợ chuyên nghiệp thực hiện để cho những người thợ làm nón bình thường thực hiện tiếp các công đoạn sau.
Thêu hoa văn trên sườn: Thông thường được thêu hoa văn theo các đề tài long, lân, quy, phụng; lưỡng long tranh châu; mai lan cúc trúc; câu thơ; câu đối hoặc những cảnh vật trên nang sườn.
- Công đoạn cuối cùng là lợp lá chằm chỉ. Lá kè tươi mua về sẽ được xử lý công phu, tướt bỏ sống lá, phơi khô trong bóng râm, đặt trên chậu lửa và lồng tre để xông lá cho chín, sau đem ra ngoài trời phơi sương, hơ lửa để vuốt cho lá được thẳng, phẳng. Người thợ dùng kéo chuyên dụng có bản mỏng, lưỡi dài để cắt lá thành từng miếng nhỏ theo chiều cao nón. Xếp chồng mép mí lá bủa (xòe) đều xung quanh sườn nón từ đỉnh xuống. Chằm (khâu) lá vào sườn nón, chỉ chằm nằm dưới mí lá nên nhìn bên ngoài không thấy đường chằm. Chằm xong, người thợ cắt bỏ những sợi chỉ thừa dính trên bề mặt nón và không quên trang trí một đùm chỉ ngũ sắc ở đỉnh nón.
Mỗi công đoạn, thường được chuyên môn hóa cho từng người trong gia đình. Và mỗi một gia đình như là một công xưởng có bộ máy điều hành sản xuất. Nguyên liệu dùng làm nón là cây giang làm sườn, lá kè (cọ) làm lá lợp nón, cây dứa (thơm tàu) thì chải ra làm chỉ. Dụng cụ để sản xuất gồm lồng tre (để sấy khô lá kè), kéo chuyên dụng (cắt lá kè), dao vuốt (chẻ) nang sườn, bàn chốt nang (có những lỗ tròn nhiều kích cỡ khác nhau để tướt nang tròn đều), kim chuyên dụng chằm nón, khuôn nón mẫu. Ngày nay chỉ được thay thế bằng cước mịn, còn giang, cọ thông thường thì được lấy từ vùng núi Vân Canh.
Nhân một chuyến đi công tác về Phú Gia, chúng tôi đã tận mắt nhìn thấy những thao tác làm nón ngựa ở đây, từ những người già đến trẻ em thiếu niên trong gia đình đều có thể tham gia vào một phần của các công đoạn làm nón với thời gian rảnh rỗi. Được biết nhà cụ Đỗ Thị Nga là một trong những gia đình có truyền thống chằm nón lâu đời, cụ đã ở tuổi 80 nhưng cũng tham gia ở công đoạn sườn mơ. Cụ cho biết gia đình cụ làm nghề này có từ thời xa lắm rồi, nhưng không biết có từ bao giờ và ai là thủy tổ của nghề. Chỉ biết, khi dòng họ lập nghiệp ở đây thì đã có truyền thống chằm nón, nhưng lúc ấy chắc chắn là không phải hình thể của chiếc nón ngựa ngày nay. Phải chăng nón ngựa là một sản phẩm của quá trình hình thành làng xã cổ truyền người Việt ở đây.
Với sự phát triển của đất nước hiện nay, một làng nông nghiệp như Phú Gia lại có được làng nghề truyền thống chằm nón ngựa; một nghề phụ nhưng thu nhập không phải là phụ, nếu ở đó có những đơn đặt hàng lâu dài và việc giới thiệu sản phẩm nón ngựa cổ truyền đối với khách du lịch được khởi sắc.
P/s : Mình lấy nguồn của báo chí .
Còn thông tin dưới đây là của mình .:
Chúng mình di chuyển từ k/s trên TP. Quy Nhơn vào lúc 3h sáng , đi ra thị trấn Bình Định chạy thêm 5km nữa là tới chổ nhóm bán nón , ở đó người ta đốt đèn hột vịt mà bán , ánh đèn dầu leo lét .
Người mua trả giá người bán . Ép giá cũng có nhưng không nhiều . Cứ 10 ngày họ sẻ đem ra chợ bán 1 lần . Và mua vật liệu mang về làm , có bán nón thì sẻ có người bán tre , nứa và các dụng cụ làm nón .
Chợ được nhóm hàng ngày và từ lúc 3h30' khuya cho đến 5h sáng là dẹp tiệm .
P/s : 1 số hình ảnh cho các bạn xem chơi để hiểu hơn nét văn hoá có từ lâu xứ Bình Định .
Cả đoàn lúc 3h sáng ở TP.Quy Nhơn
Báo hiệu cho đoàn là đã tới nơi cần tới .
Khung cảnh mua và bán nón
Dùng đèn dầu xem nón có đẹp không , đường chằm có mướt tay không ?
Last edited: