I-love-bicycle-t
Phượt thủ
Bạn viết hay và rất hồn nhiên về Huế.
Ở đây mình xin góp ý là bạn có vẻ đã tìm hiểu trước có vẻ rất ...am tường nhưng bạn vẫn quên mất điều cơ bản là lifestyle ở đây. Cơ bản là người dân ở đây thường ăn ngoài vào sáng sớm và buổi tối, còn lúc bạn đến chắc là trưa nắng lúc gần trưa rồi nên không có gì bán là đúng. Ăn vặt, ăn đồ ăn rẻ mà ngon ở ngoài đường thì ít ra "1 người tìm hiểu tường tận" như bạn nên biết đường mà đi vào lúc sớm. Nhịp sống ở đây tuy là một thành phố trực thuộc cấp trung ương nhưng người dân vẫn giữ nếp sống như ở những phố thị nhỏ khác. Bạn có quyền rên la than vãn các kiểu nhưng rên trên cái "am hiểu tường tận" của bản thân thì mình thật không biết nói gì hơnNgày thứ nhất.
Em nhớ câu hát: "Chợ Đông Ba khi mình qua, lá me bay bay là đà, chiều thiết tha, có anh bên mình mà ngỡ hôm qua", nên khi vừa đặt chân vào thành phố, em đã ngay lập tức đi tìm câu hát đó. Khi nhìn thấy cái chợ trong khúc hát dịu dàng và mượt mà ấy, em thấy những ảo tưởng trong mình vỡ tan. Em tự nhiên thấy mình chỉ muốn được ngồi trong một quán café máy lạnh, tránh đi cái nóng nực của trời. Lò dò gửi xe, lượn lờ vào chợ. Theo kinh nghiệm đọc được, em đi lòng vòng tìm chỗ nào đông người Huế ăn thì vào nhưng khổ nỗi, cái giờ em đi là giờ tréo ngoe, sáng không ra sáng, trưa chẳng ra trưa, hàng quán vắng tanh vắng ngắt. Quyết định dấn thân vào một quán ăn theo kiểu hên nhờ rủi chịu, em rủi vạc mặt. Kêu một tô bún bò huế, rồi một đĩa bánh bèo bánh lọc, tất cả dở tệ, dở đến “đau lòng con cuốc cuốc”, sau đó còn được khuyến mãi một cái giá mà người ta hay nói “đắt xắt ra miếng”. Những gì sót lại của câu hát đó là có lá me bay.
Cũng phải nói rằng, để chuẩn bị cho chuyến đi, em đã lật tung trang phượt tìm các thông tin về Huế. Từ cách đi từ sân bay về trung tâm thành phố, thuê khách sạn, xe máy ở đâu, nào là quán ăn ngon ở địa điểm X, nào là café đẹp ở địa điểm Y, cho đến các kinh nghiệm nhỏ lẻ khi phượt Huế, tất cả được em chắt lọc rồi in ra một đống tờ A4, dù sao thì khi cần cũng có “phao” mà rút. Tuy nhiên, sau vụ ăn uống, em ngộ ra một điều rằng, dù có bí kíp, nhưng thời thế thế thời quan trọng lắm. Bởi vậy, đẹp nhất vẫn là mọi sự tùy … nghi.
và mình thấy thích thú hơn là chỗ này. Bạn đúc kết cũng thật dễ thương như châm ngôn ngàn đời ý. Chắc mình sẽ ghi lại để học hỏi. Hì hìTuy nhiên, sau vụ ăn uống, em ngộ ra một điều rằng, dù có bí kíp, nhưng thời thế thế thời quan trọng lắm. Bởi vậy, đẹp nhất vẫn là mọi sự tùy … nghi
những giá trị văn hoá của Huế trong bài viết không khác gì ...cái bánh chưng "nửa nạc nửa mỡ" như bạn mô tả, hài hước và thật sự mất giá trị. Và rõ ràng với 2 từ cụ thể nhất là "kệch cỡm".gu-gô-ộp-pa
Chẳng hiểu sao, nói đến Kinh thành Huế em tự dưng liên tưởng đến … bánh chưng, vòng tường thành đầu tiên của kinh thành được ví như lá bánh. Ta sẽ thấy toàn bộ phần gạo nếp màu trắng là khu vực nhà dân, quan lại, phần đậu xanh là Hoàng thành, trong đậu xanh có thịt mỡ là Tử cấm thành. (So sánh cho vui thôi chứ Kinh thành nó không mềm mềm thơm thơm như vậy). Hoàng thành và Tử cấm thành gọi chung là Đại Nội. Bởi vậy, nếu nói đến Hoàng thành sẽ hàm ý cả Tử cấm thành, nhưng nếu nói đến Tử cấm thành thì nó chỉ là Tử cấm thành mà thôi. Vì chuyến đi này mà em ngồi khảo gu-gô-ô-pa, nhờ đó mà bớt cùi hơn tí.
Chẳng hiểu vì sao lúc đó chợt nhớ đến hai câu thơ ấy mà nghe lòng dâng lên một nỗi buồn da diết. Cũng may, từng đàn cá lội tung tăng cắt đứt nguồn cảm hứng, bởi khi nhìn thấy lũ cá đông hơn quân Nguyên ấy, em tự nhiên chép miệng “Chẹp, cá này mà om dưa là ngon phải biết”. Em tự nhiên hận bản thân mình, tại sao trong hoàn cảnh ấy mà em lại để ý đến cái sự no đói rất “đời thường”. (Thở dài)
- Mình cũng thật sự thấy khôi hài dùm bạn với nhiều câu thế này. HìCá này mà om dưa thì ngon lắm đây
ở chỗ này mình không đồng ý lắm vì những trụ này được mô phỏng theo kiểu Stoupa của Phật giáo, hay còn gọi là StupaCác trụ biểu mang nét kiến trúc Champa...
Ở đoạn này, mình thực sự không biết nên cười hay mếu theo đúng ý bạn. Có thể bạn đúng khi người ta thu phí để tham quan nhưng cũng chỉ để trùng tu di tích và thực sự mình không hiểu "nuôi" người sống là như thế nào. Bạn có thể hài hước theo kiểu nào cũng được như đặt ở đây mình thấy rất vô duyên. Thế nhé.Với Ứng Lăng, người Huế có một câu nói rằng, nếu như có một nơi mà người chết nuôi người sống chẳng nơi nào có được, thì đó là Huế, và người đó là vua Khải Định. Người ta bảo, đến Huế, có thể không đi lăng này lăng khác, nhưng nhất định phải ghé thăm nơi này, Khải Định đã để lại một quần thể di tích để con cháu đời sau có thể thu phí mà nuôi người sống.
Trong Văn bia của vua Tự Đức có một đoạn như sau " Ta trồng nơi đây thật nhiều cây để gọi chim về , chim nào vui thì cứ đến ở " . Lưu ý đây là Văn bản được xem là thiêng liêng khắc trên đá Hoa cương trước mộ của một ông vua quyền lực nhất nhà Nguyễn . Dù thế nào đi nữa trong nghệ thuật kiến trúc kinh thành Huế , Vua Tự Đức La một nhà nhân đạo chủ nghĩa đi trước thời đại của ông biết bao nhiêu .Ngày thứ hai.
Ngủ dậy, bỏ lại sau lưng những ủy mị của ngày hôm trước, và đùng một cái, em trở thành kẻ “rơi xuống vực, vô tình lụm bí kíp”
Đó là khi em “lụm” được anh bạn đang công tác ở Huế. Vậy là em đã có một người bạn đồng hành thẳng tiến lăng Khải Định.
Lăng Khải Định hay còn gọi là Ứng Lăng, là lăng cuối cùng được xây dựng trong hệ thống các lăng của triều Nguyễn, được xây dựng trong 11 năm, từ năm 1920 đến năm 1931 mới hoàn thành. Đây là lăng tạo cho em ấn tượng mạnh mẽ nhất trong hệ thống lăng tẩm Huế. Đứng từ chỗ gửi xe nhìn lên, cảm giác lúc đó thật sự choáng ngợp trước một công trình kiến trúc độc đáo, cứ ngỡ như trước mặt là một tòa lâu đài cổ ở châu Âu vậy. Lăng được xây dựng trong giai đoạn văn hóa nghệ thuật phương tây đang thâm nhập mạnh vào nước ta, hơn nữa, tư tưởng của vua Khải Định cũng đã ảnh hưởng của văn hóa phương tây, nên kiến trúc của lăng có sự kết hợp giữa kiến trúc Á - Âu, cũng như có sự kết hợp về tôn giáo, biểu hiện rõ ngay sau khi bước chân qua cổng tam quan. Hoa sen là loài hoa thiêng liêng của Phật giáo, hàng rào lăng là một hệ thống các thánh giá thuộc về Thiên chúa giáo. Các trụ biểu mang nét kiến trúc Champa... Trước sân là tượng hai hàng văn võ bá quan theo đúng nguyên tắc “tả văn, hữu võ”, cùng với các tượng ngựa, voi.
Ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, phải nói rằng, ít khi em có cảm giác ấy.
Cung Thiên Định với gam màu vàng rực được trang trí cực kỳ công phu và tráng lệ hiện ra trước mắt. Các mặt tường đều được đắp nổi bằng nghệ thuật ghép sành sứ, thủy tinh, tạo nên những bức tranh sinh động. Ngẩng đầu nhìn trần điện đến mỏi cổ, em tự hỏi không biết ngày xưa các nghệ nhân họ đã làm thế nào để tạo nên một “Cửu Long Ẩn Vân” kỳ diệu đến thế. Một cảm giác cực kỳ thỏa mãn vì đã đến nơi này.
Những bức tường - tranh trong Thiên Định cung.
Bức bích họa “Cửu Long Ẩn Vân” trên trần điện. Sau gần một trăm năm không hề bị bay màu vẽ.
Khải Định cũng là vị vua duy nhất công khai nơi chôn cất hài cốt sau khi mất. Sở dĩ ông tự tin như vậy vì hai nguyên nhân, một là thời đại ông đã xa với cái thời quật phá mồ mả, thứ hai là do Ứng Lăng được xây dựng kiên cố, kiến trúc độc đáo, ông tin rằng người đời sau biết đón nhận cái đẹp và trân trọng cái đẹp đó. Có tương truyền rằng nếu phần mộ bị khai quật sẽ khởi động hệ thống cơ quan làm sập lăng này. Trên phần mộ vua là bức tượng Khải Định ngồi trên ngai vàng được đúc bằng đồng ở Pháp, khi mang về Việt Nam thì mạ vàng ròng bên ngoài. Lý do vua tạo dáng ngồi như vậy vì ông tin rằng ở trần thế ông làm vua thì về cõi vĩnh hằng ông cũng làm vua. Phía trên bức tượng là bửu tán (bửu – cao quý, tán – cái lọng), bằng xi măng nặng cả tấn, bên ngoài ốp sành sứ và khảm thếp vàng, điều kỳ diệu là khi nhìn vào lại có cảm giác rất mềm mại, thanh thoát, tưởng chừng như có thể đung đưa trước gió vậy.
Tượng mạ vàng ròng của vua và bửu tán bên trên.
Với Ứng Lăng, người Huế có một câu nói rằng, nếu như có một nơi mà người chết nuôi người sống chẳng nơi nào có được, thì đó là Huế, và người đó là vua Khải Định. Người ta bảo, đến Huế, có thể không đi lăng này lăng khác, nhưng nhất định phải ghé thăm nơi này, Khải Định đã để lại một quần thể di tích để con cháu đời sau có thể thu phí mà nuôi người sống.
Ngược dòng thời gian, em tới thăm lăng Tự Đức.
Lăng Tự Đức hay còn gọi là Khiêm Lăng, được xây dựng năm 1864, dự kiến xây trong 6 năm nhưng rút lại còn 3 năm do hai viên quan trông coi việc thi công bắt ép dân binh phải lao động cực nhọc để hoàn thành. Lăng nằm trong một rừng thông, cách Huế 8km.
Có lẽ, do còn bị ảnh hưởng bởi sự hoành tráng của Ứng Lăng, khi đến với Khiêm Lăng em có một cảm giác khá hẫng, nói một cách khôi hài là giống như một người đang đi máy bay tự dưng rớt xuống đi xe đạp vậy. Mặc dù, đi xe đạp tất nhiên cũng có cái hay của nó, nhất là đi trong một buổi chiều mát mẻ, khung cảnh hữu tình. Tuy nhiên, tình trạng đó nếu xảy ra đột ngột quá cũng không tốt, con người sẽ khó thích nghi.
Khiêm Lăng chia thành hai khu vực, khu vực tẩm điện là nơi làm việc, nghỉ ngơi, giải trí của vua cùng các phi tần, và khu lăng mộ. Đi dạo một vòng, thấy nhiều công trình xuống cấp nghiêm trọng, đổ nát, một số nơi được treo biển “Khu vực nguy hiểm. Không tham quan.” Trong các gian nhà, nhiều cột trụ bị nứt, phải có cột sắt rường lại cho vững chắc. Trừ một số nơi chính, phần còn lại trông rất hoang tàn.
Từ Xung Khiêm Tạ - nơi nhà vua hóng mát, ngắm cảnh và làm thơ nhìn sang Hòa Khiêm Điện, là nơi làm việc của nhà vua mỗi lần đến lăng.
Chữ Khiêm trong chữ Khiêm lăng mang ý nghĩa khiêm nhường, khiêm tốn, các công trình trong lăng không được sơn son thếp vàng, không rực rỡ xa hoa như Ứng Lăng mà đa phần mang màu sắc trầm buồn, u tối. Quần thể lăng rộng lớn, những con đường rợp bóng cây nhưng người thì vắng bóng tạo nên một bầu không khí rất cô tịch.
Trên con đường quanh co dẫn sang khu lăng mộ có một tấm bia có trọng lượng và cao lớn nhất được ghi vào kỷ lục Việt Nam, có số lượng chữ khắc trên bia đá nhiều nhất, do chính nhà vua luận về cuộc đời mình, như, tại sao vua không có con, tại sao lại là người giết anh trai, tự nhận mình nhu nhược... Đây là tấm bia có nội dung độc đáo nhất, là bản tự kiểm của nhà vua để lại cho hậu thế phán xét, đánh giá về một vị vua có thời gian trị vì lâu nhất trong 13 triều vua nhà Nguyễn. Phía sau tấm bia đi thêm một đoạn sẽ đến một cái hồ hình trăng non, ở dưới không có nước, gọi là hồ Tiểu Khiêm. Nước ở dưới hồ do âm dương trời đất hòa quyện mà thành (nước mưa), đi qua hồ đó coi như đã rũ bỏ toàn bộ nợ trần (khu vực tẩm điện), những gì cần nói đã nói hết ở văn bia, rồi đi về phía lăng mộ là nơi cuộc sống vĩnh hằng của vua bắt đầu.
Nhà bia - Bên trong là tấm bia lớn, hai mặt khắc bài Khiêm Cung Ký do chính nhà vua ngự chế.
Lúc đó, em không có nhiều ấn tượng với lăng này lắm ngoài việc mua hai cây kem giá 60 ngàn. Tuy nhiên, khi ngồi ngắm lại những bức hình đã cũ, nghe một bản nhạc dịu dàng xứ Huế, và đọc về cuộc đời của một vị vua nổi tiếng nhân từ trong lịch sử thì trong em có nhiều điều rất khác. Thương xót cho một vị vua “lực bất tòng tâm” trước thời cuộc, cả cuộc đời chịu nhiều nỗi thống khổ. Điều đó khiến em nhớ đến cái không khí vắng lặng, yên ả của buổi trưa hôm ấy, nhớ đến những mái ngói rêu phong mang hồn Việt, và nhớ cả câu nói khi người ta nói về Khiêm Lăng, “Đó là nơi nỗi buồn mỉm cười và niềm vui bật khóc”