Chuyện ăn uống của những người dân chạy lũ cũng cơ cực bội phần. Trời không mưa, họ nấu cơm dã chiến trên triền đê, rồi ăn ngay tại chỗ. Còn trời mà mưa thì đành nhịn đói hoặc cầm hơi bằng mì tôm bởi không thể nấu nướng gì được. “Gay go nhất là gạo thóc và nước sạch. Giếng bị ngập sâu trong lũ, bà con phải chèo thuyền đi mấy cây số để xin nước từ các xã miền trên, nhiều người còn phải mua với giá 10-20 nghìn đồng một can”, chị Lan buồn bã. Đến khi ăn thì lại không có bát đũa, nhiều gia đình phải bơi thuyền về nhà, tìm mấy cái bát rồi chuyền tay từ nhà này qua nhà khác. Một số phải ăn bốc vội vàng.
Chuyện ăn uống, đầu vào của người dân đã khó, việc “giải quyết đầu ra” cũng vô cùng khó khăn. Toàn vùng bị ngập nước, chỉ còn sót lại thân đê. Những nhu cầu đại tiện, tiểu tiện được đám trẻ con thực hiện tại chỗ trên thân đê, còn người lớn thì phải chờ đến tối mới giải quyết. “Tối đến, đàn ông, đàn bà lại xuống mép sông để giải quyết, nhiều khi gặp nhau những chỗ ấy mà cứ đỏ mặt”, chị Lan tủm tỉm cười.
Không có thức ăn, không củi lửa, cũng không có quần áo để thay. Sống sót là may rồi. Từ trong các lèn đá, hang hốc của núi đá vôi, bà con nhìn xuống các xóm của xã mình. Nước lưng nhà, rồi lút nóc nhà, rồi chỉ còn cái ngọn cây cau và nóc trường học nhô lên. Tất cả biến mất như một cơn mơ ác. Mưa mỗi lúc một lớn, mái đá tiền sử không phải là hang sâu, nên không có khả năng che mưa gió. Quần áo ướt suốt đêm ngày, không có quần áo mà thay. Họ nằm run nhong nhóc. Cái đói xâm chiếm dần.
Suốt 2 ngày không có gì ăn, nước dâng đến chân lèn đá, nhưng đó là nước lũ, xác súc vật nổi lềnh bềnh, không uống được. Có người tình cờ đem theo điện thoại di động, gọi kêu cứu, lát sau thì trạm tiếp sóng, trạm truyền thanh đều bị nước lũ làm cho tê liệt. Bà con chỉ biết nằm “chắp tay chờ số phận”. Sau 2 ngày đói khát, thì họ bắt đầu nhìn thấy sự sống, với những chiếc canô của lực lượng cứu trợ rẽ nước tìm vào. “Cán bộ mải miết đi tìm dân, nước trắng trời, dân thì bặt vô âm tín. Dân chúng tôi như là trở về thời nguyên thuỷ rồi, không còn cái gì sót lại ở nơi này cả!”
Một ông bố trẻ bảo, anh đang tính sẽ đặt tên đứa trẻ được sinh ra trên mái nhà, vào thời điểm cuối năm 2010 này là “Lũ Lụt” để làm kỷ niệm, giống như thời gian khó ta từng có quá nhiều người được sinh ra, rồi đặt tên là Ruộng, Đồi, Chiến Thắng... (vì được sinh ra khi người phụ nữ đang đi làm ở ngoài đồi, ruộng, trong khi tất cả chung sức đánh thắng kẻ thù...). Ông Chất - Chủ tịch UBND huyện Minh Hoá - vừa triết lý về đứa trẻ đẻ trên mái nhà, vừa lo lắng về việc nước rút rồi, vài tháng sau bà con không biết lấy gì sinh sống, ngoài việc ngồi chờ tiền, hàng cứu trợ, bởi ngô lúa giống, tư liệu sản xuất, trâu bò, lợn gà, tiền bạc của nả... trôi theo lũ hết sạch.
Đứng trong lèn, tôi vẫn trông thấy cái cột điện cao thế thò một đầu mẩu lên giời mà. Anh Huy sống ở thôn 2, xã Tân Hoá, với 65 hộ dân. “Nước lên nhanh đến mức chúng tôi chỉ kịp chạy thoát thân. Chui vào hang đá, rồi cứ leo mãi lên đỉnh dốc, nước ở sau chân. Suốt 6 ngày, khổ nhất là cháu bé con anh Trương Quốc Anh, nó mới được 1-2 ngày tuổi, chưa kịp đặt tên, chưa khô cuống rốn, đã phải vào hang. Mẹ cháu (chị Tuyết) ướt suốt ngày đêm, nằm khóc ủ con trong bụng, bà con thương lắm, cũng chẳng biết làm sao - anh Huy nói. “Điều anh lo nhất lúc này là gì?”; mân mê những mẹt ngô giống bốc mùi thum thủm chỉ có thể nghiền ra cho gia súc ăn, xách túi gạo “cứu tế” bé xíu, ngồi bên ngôi nhà gỗ rách bươm tơi tả, anh Huy thẳng thắn: “Tôi sợ nước sẽ dâng lên, lại phải vào hang đá một lần nữa, lại đói khát và lại nghĩ rằng mình sẽ chết vì đói”.
ST