What's new

Tìm hiểu về các thông số lens

Status
Not open for further replies.
IV.7. Các ống kính xài trong mọi thời tiết.
Phần lớn các ống kính Canon chuyên nghiệp (dòng L) chế tạo từ giữa những năm 1999 được gắn thêm các vòng gioăng chắn bụi và ẩm. Chúng không chịu được nước, vì vậy không thể chụp dưới nước được, nhưng chúng chịu được nhiều điều kiện thời tiết hơn các ống kính khác.
Tất nhiên, nếu ta xài thân máy không chống thấm nước thì hiệu quả của các ống kính này bị hạn chế nhiều. Các dòng máy đầu bảng hiện nay như EOS 1V, 1D, 1Ds 1D mark II, 1Ds mark II và 1D mark IIN (dòng 1, 1N or 3 thì “độ lỳ” thấp hơn) có cùng “độ chịu đựng” như nhau và đều được trang bị các gioăng làm kín tại các vị trí nhạy cảm. Ta vẫn dùng được các ống kính này trên thân máy thông thường nhưng gioăng trên ống kính không có tác dụng gì với thân máy.
Một số ống kính dòng này của Canon:
16-35mm 2.8L USM
16-35mm 2.8L II USM
17-40mm 4L USM
24-70mm 2.8L USM
24-105mm 4L IS USM
70-200mm 2.8L IS USM
70-200mm 4L IS USM
28-300mm 3.5-5.6L IS USM
50mm 1.2L USM
85mm 1.2L II USM
300mm 2.8L IS USM
400mm 2.8L IS USM
400mm 4 DO IS USM
500mm 4L IS USM
600mm 4L IS USM
Phiên bản II của ống chuyển đổi Extender EF 1.4x II và Extender EF 2x II cũng lắp gioăng kiểu này.
IV.8. Khoảng lấy nét tối thiểu.
Như mắt người, ống kính máy ảnh có điểm lấy nét gần nhất và ta không thể lấy nét gần hơn. Khoảng lấy nét này phụ thuộc kết cấu ống kính, nhưng thường ống góc rộng khoảng cách này nhỏ hơn ống tiêu cự dài. Đương nhiên các ống cận cảnh lấy được nét gần hơn nữa.
Người ta phải di chuyển đối tương ra xa để nhìn cho rõ, với máy ảnh ta có thể lắp thêm một ống nối dài để kéo dài khoảng cách từ ống kính đến mặt phim khiến ống có thể lấy nét gần hơn nữa, nhưng lúc này ta không thể lấy nét ở vô cực được nữa.
Ấy nhưng, nhiều ống kính có thể chỉnh nét qua cả điểm đánh dấu vô cực trên thân ống, điều này cũng bình thường vì các ống kính này thiết kế để bù trừ sự dãn nở do nhiệt độ môi trường khiến tiêu cự của ống bị thay đổi.
 
IV.9. Loa che ống kính.
Ngoài việc làm cho ống kính thêm to và dài hơn, gây ấn tượng đối với dân “ngoại đạo”, các loa che ống kính (đôi khi còn gọi là vòng che) còn có hai tác dụng nữa. Thứ nhất, nó giảm lượng ánh sáng tản mạn đập vào mặt ngoài ống kính, vì lượng ánh sáng không tạo nên ảnh này có thể gây loé trên mặt phim, làm giảm độ tương phản và nghiêm trọng hơn gây nên các đốm màu rực rỡ trên mặt ảnh. Thứ hai, loa che bảo vệ ống kính khỏi các va chạm không mong muốn.
Loa che ống kính có nhiều dạng, Canon bán nó ở dạng ống trơn và dạng cánh hoa (khía chữ V), làm từ nhựa đen, cứng. Dạng cánh hoa được coi là hoàn hảo hơn dạng ống trơn trong việc bảo vệ ống kính.
Một số loa che gắn cùng ống kính, số khác lắp bằng ngạnh hoặc chỉ đơn giản vặn vào đầu ống, một số còn cấu tạo sần để hấp thụ ánh sáng. Bạn còn có thể mua cả loa che bằng cao su của một số hãng độc lập, nhưng Canon thì không bán loại này.
Bất công là ở chỗ, loa che này khá đắt, không hiểu các nhà sản xuất tính giá thành của nó như thế nào.
Tên của các loa che:
Các loa che của Canon được đặt tên bằng các ký hiệu gồm cả chữ và số khá khó hiểu, cả một hệ thống đặt tên cho dù chỉ để cung cấp chút ít thông tin mà thôi, tuy vậy nếu bạn hiểu được cách đặt tên này bạn sẽ biết được các loa che có thể được lắp lẫn như thế nào.
Chữ đầu tiên của loa là E, chỉ ra rằng đây là các loa che cho ống kính EF
Chữ thứ hai có thể là W (wide), S (standard) hoặc T (telephoto), ký hiệu này chỉ ra loa che có thể lắp vừa loại ống kính nào. W lắp cho mọi ống kính góc rộng hơn ống 50mm, S lắp cho ống tiêu chuẩn 50mm và T lắp cho các ống góc hẹp hơn ống 50mm.
Sau hai chữ này là một con số chỉ đường kính gắn loa che (đơn vị mm). Một số loa che gắn nhanh bằng cơ cấu đặc biệt (xoay và khoá lại) số khác thì có thể dùng các cơ cấu khoá nhờ các đầu hãm bằng nhựa đàn hồi, nói chung các ống kính đời mới dùng kiểu thứ nhất và các ống đời cũ dùng kiểu thứ hai.
Cỡ của các loa che đôi khi được ký hiệu bằng chữ từ A đến D. Ký hiệu này cho biết kiểu loa che nhưng không cho biết nó lắp được cho ống kính nào.
Nhìn vào các ký hiệu này ta cũng không biết loa che thuộc loại “ống” hay loại “cánh hoa” ví dụ loa che EW-78 lắp vừa ống 35-350 3.5-5.6L USM, EW-78B lắp vừa ống EF 28-135 3.5-5.6 IS USM, loa che EW-78C lắp vừa ống EF 35 1.4L USM còn loa che EW-78D xài cho ống EF 28-200 3.5-5.6.
Cuối cùng, ký hiệu loa che có thể kết thúc bằng chữ số La mã chỉ phiên bản chế tạo, ví dụ số II hoặc III. Nói chung, phiên bản II và III có tráng bên trong bằng vật liệu không phản xạ ánh sáng như nhung đen chẳng hạn. Các loa che không ghi phiên bản thì chỉ được sơn đen trong lòng mà thôi, thế nhưng điều này cũng lại phụ thuộc vào thời điểm sản xuất loa che đó. Một số loa phiên bản II cho ta nhiều khoảng không phía đầu ống kính hơn nên có thể lắp cả các kính lọc dạng phân cực.
Một số loa che sáng:
ET-65 III
E- lắp cho ống kính EF
T- dùng cho ống kính tiêu cự dài
65- đường kính ngàm lắp
III- phiên bản thứ 3 của dòng ET-65, loa này được tráng lớp len chống phản quang bên trong.
Loa che này lắp vừa cho các ống kính sau: 85 1.8 USM, 100 2.0 USM, 135 2.8 SF, 70-210/3.5-4.5, 75-300 4-5.6 và 100-300 4.5-5.6 USM.
EW-78B
E- lắp cho ống kính EF
W- dùng cho ống kính góc rộng
78- đường kính ngàm lắp
B- nắp thuộc nhóm B
Loa che này xài cho ống 28-135 3.5-5.6 IS USM.
ET-160
E- lắp cho ống kính EF
T- dùng cho ống kính tiêu cự dài
160- đường kính ngàm lắp
Loa che khổng lồ này xài trên ống kính 600mm 4L USM IS.
Tên tuổi của các loa che cho biết vài điểm thú vị, ví dụ các loa EW-65, ES-65 và ET-65 là các loa che giống hệt nhau, chỉ khác ở chiều dài. EW-65 ngắn nhất và ET-65 dài nhất, nếu gắn ET-65 lên ống 28mm ảnh của bạn sẽ bị đen bốn góc (trừ khi bạn dùng máy cảm biến nhỏ). Ngược lại, ta có thể gắn EW-65 lên ống 100-300 4.5-5.6 USM vẫn dùng tốt. Ta có thể thay ES-65 (đã ngừng sản xuất) bằng EW-65, nói chung là có thể dùng loa che ngắn thay cho loa dài, ngược lại thì phải cẩn thận.
 
V. Các câu hỏi thường gặp về ống kính
V.1. Liệu có thể thay ống kính khi vẫn còn phim bên trong?

Tất nhiên là được, ta có thể thay ống kính bất kỳ lúc nào ta muốn. Thân máy có lắp màn trập ngăn không cho ánh sáng tiếp xúc với mặt phim.
Hiển nhiên là không nên thay ống kính khi bạn đang ở ngoài mưa hay trong cơn gió cát và cũng đừng chạm tay vào màn trập.
V.2. Liệu có các vấn đề tương thích giữa các ống kính EF của Canon?
Về cơ bản thì không, bất kỳ ống kính ngàm EF nào cũng hoạt động tốt trên mọi hệ thống EOS.
Chỉ có vấn đề nhỏ với hệ thống ổn định hình ảnh (IS) khi lắp trên một số máy EOS cũ- Ống kính vẫn hoạt động nhưng IS có thể không bình thường, ảnh có thể vẫn bị rung khi bấm máy. Tuy nhiên chất lượng nói chung của cả bức ảnh không bị ảnh hưởng gì. Các ống kính chỉ lấy nét tự động không dùng được trên các thân máy EF-M, một loại thân máy không lắp mạch điện tự động lấy nét và chỉ dùng các ống lấy nét bằng tay.
Vấn đề tương thích chỉ nảy sinh khi có ống kính EF-S, vì nó khác các ống EF. Ống EF-S đánh dấu bằng một hình vuông trắng chỉ lắp được trên các thân máy EF-S
V.3. Vấn đề tương thích của các nhà sản xuất ống EF độc lập?
Đôi khi có. Một số ống kính lai, đặc biệt là nhiều ống kính đời cũ của Sigma, không làm việc tốt trên vài thân máy đời mới như Elan 7/EOS 30/33 và máy số EOS 10D. Triệu chứng hay gặp nhất là lúc gương phản chiếu lật lên, máy bị treo luôn (khi ta nhấn nút chụp) sau đó bạn phải khởi động lại máy ảnh. Giải pháp duy nhất là nhờ hãng mẹ nâng cấp ống kính cho bạn, khá rắc rối!
Chỉ có một hãng ít gặp các vấn đề về tương thích là Tamron. Một số người phỏng đoán rằng có lẽ Tamron có giấy phép chính thức của Canon, tuy nhiên Canon tại Mỹ luôn luôn bác bỏ mọi khả năng cấp phép cho bất kỳ hãng ống kính nào. Vì vậy, hoặc là Tamron gặp may hoặc là họ rất giỏi trong việc nghiên cứu các hệ thống của Canon, chỉ biết là Tamron rất ít gặp các vấn đề về tương thích, nhưng về lâu dài cũng chưa biết thế nào.
Sigma thông báo một số ống kính cần nâng cấp để dùng cho các máy ảnh EOS mới:
24-70mm 3.5-5.6 aspherical UC
28-80mm 3.5-5.6 mini zoom macro aspherical
28-80mm 3.5-5.6 mini zoom macro aspherical HF
28-80mm 3.5-5.6 mini zoom macro II aspherical
28-105mm 2.8-4 aspherical
28-105mm 3.8-5.6 UC-III aspherical IF
28-135mm 3.8-5.6 aspherical IF macro
28-200mm 3.5-5.6 DL aspherical IF hyperzoom macro
28-300mm 3.5-6.3 DL aspherical IF hyperzoom
70-210mm 4-5.6 UC-II
70-300mm 4-5.6 APO macro super
70-300mm 4-5.6 DL macro super
100-300mm 4.5-6.7 DL
135-400mm 4.5-5.6 APO aspherical RF
170-500mm 5-6.3 APO aspherical RF
8mm 4 EX circular fisheye
15mm 2.8 EX diagonal fisheye
24mm 2.8
28mm 1.8 II aspherical
50mm 2.8 EX macro
105mm 2.8 EX macro
300mm 4 APO tele macro
400mm 5.6 APO tele macro
500mm 4.5 APO
500mm 7.2 APO
800mm 5.6 APO
28-70mm 2.8-4 UC
28-105mm 4-5.6 UC
28-105mm 4-5.6 UC-II
70-210mm 3.5-4.5 APO macro
28-200mm 3.8-5.6 aspherical UC
 
V.4. Liệu có dùng được các ống kính lấy nét tay trước đây của Canon trên các máy ảnh EOS?Đáng tiếc là không. Trước khi giới thiệu máy ảnh EOS lấy nét tự động, Canon bán nhiều ống kính lấy nét bằng tay cho các máy ảnh phim SLR. Phần lớn các ống kính này là dạng FD, đáng buồn là ống kính FD không dùng được cho hệ EOS. Ngàm gắn không tương thích cả về cỡ và kiểu. Tương phản với Nikon, phần lớn các ống kính lấy nét tay dòng F của Nikon đều hoạt động trên các máy lấy nét tự động.
Có thể dùng vòng nối để lắp ống FD lên máy EOS, nhưng điều này ít có giá trị, có quá nhiều nhược điểm.
V.5. Liệu có thể dùng cá ống kính không phải của Canon trên máy EOS?Điều này phụ thuộc nhiều yếu tố. Nhiều hãng sản xuất ống kính (Tamron, Sigma và Tokina là ba hãng lớn nhất) thiết kế sản phẩm của mình cho dòng EOS. Các ống này đương nhiên hoạt động tốt trên EOS, vấn đề chính chỉ liên quan đến các mạch điện như đã được đề cập.
Nếu ta có một ống kính lai không lắp vừa trên thân EOS thì có thể biết ngay là nó không làm việc được với EOS, tuy có thể dùng các ống nối nhưng kết quả đem lại ít khả quan. Lấy nét tự động không làm việc, khẩu độ phải đặt ngay trên ống kính. Vì vậy việc dùng các ống kính này chỉ có ít nhiều giá trị nếu ống kính là loại đặc biệt hiếm có hoặc ví tiền của bạn cực kỳ “hẻo”.
V.6. Liệu có thể lắp ống kính dòng “L” lên một thân máy phổ thông?Đương nhiên được. Bất kỳ thân máy EOS nào cũng tương thích với mọi ống EF (hoặc tương đương).
Vấn đề chính ở đây là trọng lượng, các ống kính nặng có thể làm ngàm gắn luôn trong trạng thái “quá tải”. Khi dùng ta nên chú ý để ống kính luôn ở phía trên thân máy, trọng lượng của thân máy không thể làm hỏng ngàm gắn. Điều này phải để tâm nhiều hơn nếu thân máy của bạn có ngàm gắn bằng nhựa. Nếu ống kính quá lớn bạn nên loại chân máy gắn vào ống kính thay vì vào thân máy.
Thân máy phổ thông không thể định thời chụp hoàn toàn bằng thay, tốc độ lấy nét (phụ thuộc cả tốc độ mô tơ của ống kính và tốc độ của máy tính trong thân máy) và tốc độ kéo phim không địch được với các máy chuyên nghiệp, tuy nhiên, dùng ống kính “xịn” trên một thân máy dạng này là một ý tưởng hay, nếu không có điều kiện bạn có thể thuê một ống kính “chuyên nghiệp”, một cách để nâng cao tay nghề hữu hiệu.
Lắp ống kính xịn như 70-200 2.8L lên chiếc máy ảnh tý hon Rebel Ti trông có vẻ hơi tức cười, nhưng như vậy còn tốt hơn nhiều bỏ ra cả đống tiền tậu một thân máy EOS 1V với một ống kính bình dân.
V.7. Khẩu độ f/8 là một khẩu độ quan trọng?
Phần lớn các ống kính đều nét nhất ở đoạn giữa độ mở của nó. Khi khẩu mở lớn nhất chất lượng ảnh thường có vấn đề. Giảm khẩu độ đi là cách làm hay, nhưng chớ lạm dụng, nếu khẩu độ giảm nhỏ quá mức, hiện tượng nhiễu xạ sẽ phát sinh làm giảm chất lượng ảnh. Phần lớn các ống kính làm việc tốt nhất ở quãng f/8 hoặc f/11
Thường thì điểm nét nhất (đôi khi còn được gọi là “điểm thuần khiết” (sweet spot)) không như nhau với các ống kính khác nhau, muốn biết đích xác ta phải thử ống kính. Hiệu ứng này khá rõ với các ống kính bình dân, nhưng trên các ống kính đắt tiền thường thì ảnh sắc nét trên cả quãng khẩu độ lớn.
V.8. Thế nào là sự nhân tiêu cự (hay hệ số thu nhỏ) với máy số và máy APS?
Phim 35 mm có khung hình 24 x 36 mm, toàn bộ khung hình này dùng cho việc ghi lại ảnh.
Sản xuất cảm biến ảnh cỡ 24x36 rất đắt tiền, trên các dòng máy tầm trung và tầm thấp, kích thước cảm biến ảnh nhỏ hơn, tương tự phim APS chỉ có cỡ 16,7x30,2mm. Khi chụp trên các máy này giống như khi ta dùng phim 35mm sau đó cúp cắt đi phần ngoài rìa (ảnh hiện lên trên khung hình lọt trong khung phim 35mm sau đó phần rìa bị cắt bỏ).
Hệ số thu nhỏ này thường bị lẫn lộn với hệ số nhân tiêu cự, do bị cúp cắt bớt nên ống kính 50mm lắp trên máy phim APS hoạt động như ống 70mm lắp trên máy phim 35mm, không phải do tiêu cự bị thay đổi mà do sự cúp cắt hình ảnh. Hệ số thu nhỏ đôi khi được thể hiện dạng số 1.3x hoặc 1.6x.
Nếu ta sử dụng ống kính chụp các vật ở xa, đây là một lợi thế, nhưng nếu chụp ở góc rộng, đây lại là yếu điểm vì ống kính góc rộng sẽ ít ấn tượng hơn nếu bị cắt đi phần ngoài rìa.
Một số ý kiến cho rằng hệ số này làm thay đổi định dạng tấm ảnh, thay đổi cả việc dùng các ống kính vốn được thiết kế cho định dạng ảnh khác. Điều này phần nào cũng đúng.
Giả sử ta có ống kính 100mm. Dùng trên máy 35mm ta có một góc thu hình nhất định. Nếu gắn lên máy có hệ số thu nhỏ 1.6x, góc thu hình của ta sẽ nhỏ đi và góc này tương đương với góc thu hình của ống kính 160mm trên máy 35mm.
V.9. Làm gì khi bụi vào ống kính?
Không may đây lại là vấn đề khá hay gặp. Chỉ có một số ống L đắt tiền mới có gioăng chống bụi. Mọi ống kính khác đều có nhiều khe, kẽ và không khí cũng như bụi dễ dàng lọt vào. Các ống kính đa tiêu cự càng hay bị mỗi khi ta điều chỉnh tiêu cự của nó. Nếu có chút bụi trong ống kính thì cũng chưa có vấn đề gì. Nhưng sẽ đáng ngại nếu bạn thấy các vệt bẩn khi hướng ống kính ngược sáng. Tháo ống kính và lau hết bụi bên trong là vô cùng phức tạp và tốn tiền, chẳng có gì đảm bảo là các thấu kính được lắp lại như cũ. Vì vậy trừ khi bụi ảnh hưởng rất nặng đến tấm ảnh, bạn không nên cố lau sạch các hạt bụi này.
V.10. Nếu có một vết xước ở thấu kính ngoài cùng thì sao?
Những vết xước hoặc sứt sẹo rất nhỏ trên thấu kính ngoài cùng thường làm người ta hốt hoảng, nhưng thực sự, trong phần lớn trường hợp chụp, chúng không làm ảnh hưởng đến chất lượng tấm ảnh vì chúng nằm quá xa mặt cảm biến nên không thể canh nét thấy. Tuy nhiên, chúng có thể gây loé, vì vậy nếu có thể ta nên tô đen các vết sứt này. Nếu các vết xước quá lớn (dài hơn vài mm) thì có thể gây ra vấn đề, các vết xước nằm trên thấu kính phía sau còn gây phiền toái hơn nữa.
 
V.11. Liệu có thể lắp ống nối để biến ống kính 50mm thành ống 100mm được không?
Có và không. Một câu trả lời chính xác rất phức tạp, nhưng xu hướng là không thể. Các ống nối (Canon gọi là các ống “extenders”) là các phụ kiện quang học để tạo sự tương thích giữa thân máy và ống kính. Thực ra đây chỉ là các ống nối với vài ba thấu kính bên trong để làm tăng chiều dài tiêu cự của ống kính đang dùng- thường gấp 1.4 đến 2 lần. Ống 50mm với ống nối 1.4x (TC) cho ảnh giống ống kính 70mm, và với ống nối 2x cho ảnh giống ống 100mm. Các ống nối này tương tự như một kính lúp vậy, chúng phóng to phần giữa ảnh và cắt đi phần ngoài rìa.
Nhưng mọi giải pháp đều có hai mặt của nó, dùng ống nối ta gặp phải ba vấn đề:
- Các ống nối làm giảm lượng ánh sáng vào ảnh. Ống 1.4x làm giảm ánh sáng tương đương 1 khẩu độ, ống 2x tương đương 2 khẩu. Với các ống kính chậm điều này rất phiền toái. Nếu dùng ống nối, ta có thể không lấy nét tự động được vì phần lớn các thân máy EOS (kể cả thân máy chuyên nghiệp) không thể lấy nét tự động (hoặc lấy không chính xác) với các ống kính chậm hơn f/5.6. Đôi khi các ống nối có các cực đấu điện “đánh lừa” thân máy, nhưng suy cho cùng lượng sáng vào máy không đủ sẽ làm hệ thống tự động lấy nét hoạt động không chính xác. Việc lấy nét tay cũng rất khó nếu bạn nhìn qua một khung ngắm tối um, nhất là với ống kính chậm.
- Các ống nối gây ra vấn đề về tương thích. Canon chế tạo hai ống nối Extender EF 1.4x và Extender EF 2x chuyên dành cho vài ống kính tiêu cự dài đắt tiền. Thấu kính ngoài cùng của các ống nối này thò ra ngoài nên không thể gắn lên phần lớn các ống EF khác, ta có thể xoay xoả bằng cách chêm vào giữa ống kính và ống nối nhưng lại càng giảm lượng sáng đi vào cảm biến, mất luôn cả việc lấy nét ở vô cực. Tamron và Kenko bán các ống nối không có phần thò ra thêm này nên có thể lắp cho mọi ống kính EOS (nhưng nhớ là ống nối không làm việc tốt với các ống kính không phải tiêu cự dài). Các ống nối này có nhiều cấp chất lượng. Nhóm chất lượng nhất (cũng đắt nhất như Kenko Teleplus Pro 300 DG chẳng hạn) có chất lượng quang học khá tốt, tuy không được như các ống nối của Canon.
- Mọi ống nối đều phần nào làm giảm chất lượng ảnh vì hai lý do: thứ nhất, có nhiều thấu kính hơn giữa mặt cảm biến và đối tượng chụp, thứ hai, ta chỉ dùng được có phần ở giữa của ống kính mà thôi. Ống nối 2x phóng to phần giữa ảnh nhiều hơn ống 1.4x, nên chất lượng quang kém hơn ống 1.4x. Nếu dùng ống kính L với ống nối chính hãng, ảnh ít bị mất chất lượng hơn. Nếu xài ống đa tiêu cự bình dân với ống nối không chính hãng, ta sẽ thấy ảnh sau cùng mất chất thế nào. Thực tế, ta có thể dùng phần mềm cắt bớt rìa ảnh, phóng to phần giữa ảnh lên, vừa ít suy giảm chất lượng, vừa tiết kiệm kinh phí.
Vậy câu trả lời sau cùng như sau: Nếu bạn có một ống kính “xịn”, xài ống nối “xịn” bạn có thể tăng được tiêu cự ống kính với chút mất mát về ánh sáng. Nếu bạn chỉ có ống kính bình dân thì đừng tốn tiền mua ống nối!!
Danh sách tương thích của ống nối Canon:
Các ống nối Canon tương thích với mọi ống kính một tiêu cự Canon EF có chiều dài tiêu cự bằng hoặc dài hơn 135mm (trừ ống 135mm 2.8 SF). Các ống nối này cũng tương thích với một số ống kính đa tiêu cự dòng L sau đây:
70-200mm 2.8L
70-200mm 2.8L IS
70-200mm 4L
100-400mm 4.5-5.6L
400mm 4 DO
135mm 2L
180mm 3.5L Macro
200mm 1.8L
200mm 2.8L
300mm 2.8L IS
300mm 4L
300mm 4L IS
400mm 2.8L IS
400mm 5.6L
500mm 4L IS
600mm 4L IS
1200mm f/5.6L
Ta cũng có thể dùng ống nối Canon cho ống kính nghiêng TS của Canon nhưng các ống kính nghiêng có thể không báo cho thân máy về sự hiện diện của ống nối.
Khi ống nối 1.4x được dùng trên thân máy nghiệp dư với các ống kính 100-400mm 5.6L, 400mm 5.6L, 500mm 4.5L, 1200mm 5.6L, với ống 180mm 3.5 Macro khi lấy nét gần hơn 0,8m hoặc ống nối 2x dùng kèm các ống kính 70-200mm 4L, 100-400mm 4.5-5.6L, 180mm 3.5L Macro, 300mm 4L IS, 300mm 4L, 400mm 4 DO, 400mm 5.6L, 500mm 4L, 500mm 4.5L, 600mm 4L, và 1200mm 5.6L thì ta có thể không lấy nét tự động được.
Cả hai đời ống nối Canon 1.4x và 2x (kể cả phiên bản II) đều có gioăng chắn nước. Ống 1.4x II có chất lượng quang học cao hơn hẳn đời trước, nhưng ống nối 2x II chỉ có chất lượng quang học cải tiến tí chút so với đời trước.
 
V.12. Phải làm gì để chụp cận cảnh?
Chụp cận cảnh vô cùng vất vả nhưng đôi khi được đền đáp thoả đáng. Những bức ảnh cận cảnh chi tiết có thể đem lại cho bạn cả một thế giới mới lạ. Đây là lý do tại sao lĩnh vực ảnh này lại nhiều thách thức như vậy.
Phần lớn ống kính không thể lấy nét ở khoảng cách đủ cho ra một bức ảnh cận cảnh đúng nghĩa, kể cả các ống kính có ghi ký hiệu “MACRO”.
Chế độ cận cảnh (ký hiệu bằng một bông hoa) trên các thân máy không giúp gì nhiều cho chụp cận cảnh vì chúng chỉ làm mỗi một việc là chuyển các chức năng của thân máy như chế độ đo sáng sang các thông số dễ chụp cận cảnh hơn mà thôi. Chế độ này không thể thay cho các chức năng của ống kính được.
Như đã đề cập, vùng ảnh rõ của các bức ảnh cận cảnh là cực kỳ cạn. Giải pháp thông thường để mở rộng vùng ảnh rõ là khép khẩu nhỏ lại và đương nhiên giảm lượng ánh sáng, gây ra nhiều vấn đề khác.
Thực tế, do khoảng cách từ đối tượng đến ống kính là rất nhỏ nên ánh sáng rất thiếu, càng thiếu hơn khi bạn khép khẩu nhỏ lại, đơn giản bởi chính ống kính của bạn che bớt ánh sáng tự nhiên. Vì lý do này, đèn flash là phụ kiện thường thấy khi chụp cận cảnh, nhất là flash vòng (gắn thành vòng tròn quanh đầu ngoài của ống kính). Đèn flash vòng này thường có hai nửa (bán nguyệt), ta có thể điều chỉnh cường độ sáng của hai nửa khác nhau để tạo thành bóng đổ cho ảnh. Nếu ít tiền bạn chỉ cần đơn giản là bọc đèn flash thường lại bằng vật liệu trong mờ để tán xạ ánh sáng.
Rắc rối ở chỗ, lấy nét tự động thường không làm việc tốt khi chụp cận cảnh, đặc biệt khi dùng ống nối. Bạn nên dùng thân máy hỗ trợ lấy nét tay, phần nào nó còn giúp cho việc quan sát qua kính ngắm được rõ ràng hơn. Việc chỉnh nét tinh tế đến mức nhiều nhiếp ảnh gia có kinh nghiệm không chỉnh nét bằng vòng chỉnh trên ống kính, mà lại di chuyển thân máy để lấy nét. Ta có thể mua các đường ray (một hoặc hai thanh) chuyên dụng và di chuyển máy ảnh trên các ray đó để lấy nét theo kiểu này.
Khi chụp cận cảnh mọi chuyển động dù nhỏ nhất cũng bị khuếch đại lên. Cứ thử hình dung bạn đang chụp một mạng nhện trong một buổi ban mai mù sương, những giọt nước đọng trên mạng nhện tựa như những quả cầu pha lê nho nhỏ vậy. Chỉ một hơi thở nhẹ cũng đủ làm cho cái mạng nhện rung lên, chao đảo đến mức gây mờ trong ảnh. Lúc này bạn phải cần một chân máy vì cầm máy bằng tay làm rung thân máy hơn nữa, có thể bạn phải đánh flash để “đóng băng” hình ảnh..
Để chụp cận cảnh có 6 cách cơ bản sau:
- Mua một ống kính cận cảnh chuyên dụng, tỷ lệ phóng to 1:1.
Phương án tốn kém nhất vì ống kính loại này không hề rẻ, nhưng lại là lựa chọn cho chất lượng tốt nhất. Ống kính cận cảnh có nhiều tiêu cự khác nhau, từ 50mm đến 90, hoặc từ 100 đến 180mm. Ưu thế của ống kính dài là bạn giữ được khoảng cách nhất định đến đối tượng. Một ống 50 mm khó chụp một con bướm trong tự nhiên vì bạn phải tiến đến gần con bướm hơn, ống kính 180mm cho phép bạn giữ được khoảng cách an toàn để không làm con bướm bay mất, dĩ nhiên là ống 180mm khá đắt. Tiêu cự 90/100 được coi là phù hợp cả về giá và ưu thế khoảng cách.
Dòng EF có 6 ống kính cận cảnh 1:1 là:
EF 50mm f2.5 Macro (cho tỷ lệ 1:2 và cần đến ống nối Life Size Converter EF để đạt 1:1)
EF 100mm 2.8 Macro (đã ngừng sản xuất)
EF 100mm 2.8 Macro USM,
Ống kính cao cấp EF 180mm 3.5L Macro USM
EF-S 60mm 2.8 macro, chỉ gắn cho thân máy EF-S.
Ống kính đặc biệt MP-E 65mm lens
Một ống kính nữa rất được ưa chuộng tuy không phải của Canon là ống Tamron 90mm macro.
- Mua một kính lọc cận cảnh (macro filter).
Thiết bị này vặn vào đầu ống kính như một kính lọc thông thường, nó đóng vai trò như một kính lúp phóng đại. Mức độ phóng đại phụ thuộc chiều dày của kính lọc và tiêu cự của ống kính chính. Kính lọc này trong suốt nhưng cải tiến được chất lượng ảnh tuỳ vào chất lượng quang học của nó. Do kính nhẹ, cơ động và trong suốt nên cho phép lấy nét tự động. Thường thì thiết bị này chỉ phù hợp cho người mới chơi ảnh khám phá thế giới của ảnh cận cảnh.
Ta có thể mua kính lọc đơn chứa duy nhất một thấu kính hoặc kính lọc đôi chứa một cặp thấu kính. Kính đôi đắt hơn nhưng chất lượng quang học tốt hơn. Kính lọc cận cảnh có nhiều loại đường kính khác nhau phù hợp cho nhiều ống kính khác nhau, nhưng đôi khi cũng cần một đoạn nối mới lắp được.
Canon có 2 kính lọc đôi 250D và 500D, cái đầu dùng cho ống kính ngắn khoảng 30-135mm, cái sau xài cho ống kính dài 70 đến 300mm. Kính lọc kiểu 500 thì không được tốt lắm vì là kính đơn. Bạn cũng có thể dùng kính lọc kiểu này của Nikon (ký hiệu 3T, 4T, 5T và 6T) chất lượng khá cao mà lại rẻ hơn đồ Canon.
- Mua một ống nối dài (ET)
Là một ống nhựa rỗng, lắp giữa ống kính và thân máy. Ống này tăng khoảng cách giữa ống kính và mặt cảm biến nên giảm khoảng cách lấy nét của ống kính (nghĩa là bạn có thể dí sát ống kính hơn vào đối tượng để lấy nét). Ống này khiến bạn không lấy nét được ở vô cực, nhưng rất tốt cho việc lấy nét cận cảnh. Ông nối cũng làm giảm lượng sáng vào mặt cảm biến, nhưng không như kính lọc, nó không làm giảm chất lượng ảnh vì nó không chứa thấu kính nào cả. Độ phóng đại thu được phụ thuộc cả chiều dài ống nối và tiêu cự ống kính chính. Một số ống kính, đặc biệt là ống góc rộng và và các ống chuyên dụng như 15mm 2.8 fisheye, 14mm 2.8L và MP-E 65mm 2.8 không tương thích được với ống nối loại này. Các ống kính EF-S đời mới có thể chỉ lắp được với các ống nối phiên bản II của Canon như Extension Tubes EF 12 II và EF 25 II
Ống nối của Canon khá đắt, bộ ba ống nối 12mm, 20mm và 36mm của Kenko rẻ hơn dù chất lượng khá tốt. Tuy nhiên các ống nối của Kenko chỉ tương thích ống kính EF, không lắp được cho EF-S.
Các hộp xếp cũng rất đắc dụng khi chụp cận cảnh, chúng chỉ đơn giản là các hộp cấu tạo xếp lớp, sẽ xẹp xuống khi bạn ép chúng lại. Hãng Novoflex bán nhiều sản phẩm dạng này cho máy EOS, hoặc ta có thể dùng lại các hộp xếp cho thế hệ ống kính FD trước kia và chế cho vừa các ống EF. Hộp xếp thường dùng kèm các thanh ray để lấy nét chính xác hơn.
- Đảo ngược ống kính và lắp và thân máy
Bạn phải dùng vòng chuyển đổi, một đầu lắp được vào ngàm EF của thân máy, đầu kia lắp vào vòng ren (dùng cho lắp kính lọc) của ống kính. Đây là thủ thuật rất cổ xưa để chụp cận cảnh.
Với các ống kính dùng cho EOS, ta không dùng được các đầu nối điện để điều khiển việc đóng mở lỗ sáng nên phải khắc phục bằng các cách khác nhau như:
Đặt độ mở ống kính trước theo giá trị mong muốn, ấn nút xem trước chiều sâu ảnh để đóng khẩu lại, gỡ ống kính ra, đảo đầu và chụp. Thật bất tiện, không thể thay đổi khẩu độ nếu không lắp lại ống kính như cũ.
Không dùng ống kính EF, mọi ống kính 35mm đều có thể lắp theo kiểu này vì suy cho cùng bạn đâu có dùng ngàm gắn thông thường nữa.
Mua một bộ chuyển chuyên dụng của Novoflex, khá đắt, nhưng có đầy đủ các đầu tiếp điện để điều chỉnh lỗ sáng.
- Gắn một ống kính đảo ngược lên một ống kính khác.
Thủ thuật cũ rích là gắn một ống kính 50mm (ống tịêu chuẩn) lên một ống kính khác nhưng đảo đầu (tức là gắn đầu lắp kính lọc của ống kính 50 vào đầu lắp kính lọc của ống kính chính nhờ một vòng chuyển đổi). Nếu ống kính ngược là ống EF thì ta không chỉnh được khẩu độ, nhưng nếu là ống kính cơ hoàn toàn thì vẫn chỉnh được như thường. Một ống kính 50 đảo, lắp lên ống kính 100mm cho tỷ lệ phóng 2x dù mất khá nhiều lượng sáng.
- Tậu một ống kính Canon MP-E 65mm
Một ống kính chuyên dụng rất hiếm gặp chỉ chuyên thiết kế cho ảnh cận cảnh. Nó không dùng được cho các mục đích khác như các ống kính cận cảnh 1:1 thông thường. Tỷ lệ phóng đại của ống kính này lên đến 5:1 thừa sức biến một hình chữ nhật 5x7mm điền đầy cả khung hình phim 35mm.
Xài ống kính này có vài bất tiện: Thứ nhất, nó chỉ dùng được nó cho ảnh “siêu cận cảnh” không thể dùng cho các mục đích khác vì nó chỉ lấy nét được ở rất gần. Thứ hai, vấn đề muôn thủa của ảnh cận cảnh- vùng ảnh rõ cực cạn rất khó miêu tả được hết cả một đối tượng. Thứ ba, hệ thống đo sáng chỉ làm việc với thân máy dòng EOS 1, mọi thân máy khác chỉ làm việc khi có chế độ đo sáng flash qua ống kính (TTL) và thứ tư, việc lấy nét qua khung ngắm đôi khi không đủ chính xác.
 
V.13. Liệu có thể dùng ống kính Canon 100mm macro để chụp chân dung không?
Chắc chắn là được. Các ống kính 100mm macro và ống cận cảnh có USM rất tốt cho chụp chân dung ngoài khả năng chụp cận cảnh. Chỉ có điều, đây là các ống kính cho ảnh rất sắc nét, mà một số người thích ống kính “mềm” hơn cho chụp chân dung, nhất là chân dung phụ nữ. Nếu bạn thuộc trường phái này thì có thể lắp thêm một kính lọc tiêu cự mềm cho ống kính.
V.14. Tại sao giờ đây mọi thứ đều làm bằng nhựa, điều gì sẽ xảy ra cho các ống kính bằng kim loại trước kia?
Rất nhiều ống kính của những thập niên 60 và 70 là những kiện tác thực sự với vỏ ống kính bằng kim loại nguyên khối, lấy nét cực êm bằng những đường xoắn ốc và vô số các bộ phận chính xác cao. Ngày nay thì nhiều ống kính có vỏ bằng nhựa. Nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này: nào là do sự hoạt động của hệ thống lấy nét tự động, do giá nhân công tăng, do thị trường SLR thu nhỏ, do công nghệ chất dẻo tiến bộ, do mong muốn làm ra những sản phẩm nhẹ hơn, do vấn đề lợi nhuận…vv và vv
Chắc chắn hoạt động lấy nét tự động là nguyên nhân chính. Các ống kính lấy nét tự động với các truyền động bánh răng đòi hỏi dung sai lớn hơn, nó cũng không dùng các đường xoắn ốc dài vì làm tốn pin và tốn thời gian lấy nét hơn. Các ống kính lấy nét tay với các đường xoắn ốc được chế tạo với dung sai nhỏ hơn nhiều.
Dùng nhiều chất dẻo cũng có những lợi ích nhất định. Chất dẻo co dãn hơn và không dễ bị mẻ như kim loại, chúng cũng nhẹ hơn và rẻ hơn khi chế tạo.
Tuy vậy các ống kính kim loại trước đây cho ta một cảm giác rất tuyệt về độ chính xác cao, độ hoàn hảo mà các ống kính nhựa không thể có. Các ống kính lấy nét tự động giá trung bình thì khó mà có vỏ bằng kim loại. Tất nhiên, cũng có nhiều ống kính dòng L có vỏ là kim loại khối và cảm giác rất chính xác khi quay vòng lấy nét. Vì thế nếu bạn phải bỏ ra nhiều tiền mới có được một ống kính vỏ kim loại và vẫn lấy nét tự động được.
Canon đã từng dùng ba loại chất dẻo khác nhau cho các đời ống kính.
Thế hệ ống kính EF đầu tiên dùng loại nhựa cứng, khá dễ vỡ (tạm gọi là loại I- tuy không phải là phân hạng chính thức của Canon). Vật liệu này được đúc với bề mặt hơi ram ráp, các ống kính đều có các đường gờ chạy dọc theo đường sinh, ngắn lại ở những chỗ bị co nhỏ. Vòng lấy nét và chỉnh tiêu cự thường không được phủ cao su chống trượt. 50mm 1.8 mark I là ống kính đặc trưng của thiết kế những năm 80.
Thế hệ ống kính thứ hai, đặc biệt là dòng L màu đen và các ống nghiệp dư cao cấp, chế tạo từ loại chất dẻo đen và đàn hồi hơn loại I (tạm gọi là loại II). Các ống kính này có vỏ trơn tru hơn loại I và bề mặt vỏ có xu hướng hơi vuốt nhỏ lại chứ không phải hình trụ thuần tuý, vòng lấy nét và chỉnh tiêu cự được tráng lớp cao su. Ống 28-105 3.5-4.5 USM và 135mm 2.0L USM là các đặc trưng cho thiết kế này. Thế hệ ống kính này ra đời cuối những năm 90.
Cuối cùng là thế hệ ống kính phổ thông những năm gần đây, chế tạo hoàn toàn bằng nhựa trơn, nhẹ tạm gọi là loại III. Thế hệ này thường có vòng chỉnh tiêu cự bọc lớp cao su to hơn cả mức cần thiết, một số được trang trí bằng vòng crôm sáng loáng để hấp dẫn người tiêu thụ. Ống EF-S 18-55 3.5-5.6 là thí dụ điển hình.
 
V.15. Chiều dài tiêu cự là gì?
Chiều dài tiêu cự là đặc tính quang học cơ bản của mọi ống kính và là yếu tố quan trọng nhất của mọi nhiếp ảnh gia. Hình dung đơn giản nhất về chiều dài tiêu cự là một trị số, đo bằng mm, biểu thị vùng thu hình mà ống kính có thể thực hiện.
Chiều dài tiêu cự của các ống kính SLR từ siêu rộng (14mm) đến siêu dài (600 và 1200mm). Vùng thông dụng nhất của các ống kính này là 28 đến 105mm.
Vậy tại sao lại đo bằng mm? tại sao không biểu thị luôn bằng góc thu hình của ống kính? Điều này một phần vì thói quen trong cả lịch sử, phần khác vì thực tế sử dụng. Định nghĩa về chiều dài tiêu cự đã bén rễ sâu trong các tính toán về quang học- đó chính là khoảng cách giữa mặt phẳng hội tụ và điểm tận cùng phía sau của ống kính khi đang lấy nét ở vô cực. Khi chuyển sang góc thu hình thì có đôi chút khác biệt phụ thuộc vào cỡ phim đang sử dụng vốn khác nhau giữa các máy ảnh 35mm, máy ảnh APS và các máy số. Trong thực hành, chiều dài tiêu cự là thuộc tính cơ bản nhất của ống kính, biểu thị vùng thu nhận ảnh thực tế phụ thuộc vào cỡ phim sử dụng.
Điều luôn phải ghi nhớ là mọi ví dụ trên đều ám chỉ cho máy ảnh phim 35mm hoặc các máy EOS toàn khung. Nếu bạn dùng ống kính 28m trên máy APS hoặc các máy số có cảm biến nhỏ hơn khung phim 35 thì vùng thu hình sẽ nhỏ đi đáng kể.
Khái niệm về chiều dài tiêu cự cũng được sử dụng cho các máy ảnh khác loại, kể cả trên các máy ảnh khung hình cỡ trung bình. Loại khung hình này thường cho một góc thu hình lớn hơn trên máy phim 35mm với cùng ống kính.
V.16. Thế nào là độ mở của ống kính?Độ mở của ống kính là thuộc tính quan trọng thứ hai sau chiều dài tiêu cự. Lấy mắt người làm ví dụ. Tròng mắt có một đồng tử có thể co dãn để điều chỉnh lượng ánh sáng vào mắt tuỳ vào tình trạng ánh sáng tự nhiên. Lúc trời tối, đồng tử mở rộng để cho nhiều ánh sáng vào hơn, khi ra ngoài nắng nó lại co vào để giảm lượng ánh sáng, tránh làm hỏng mắt. Phần lớn cá ống kính máy ảnh đều có một cơ cấu tương tự đồng tử của mắt người- một màng chắn bằng kim loại hoặc nhựa có thể điều chỉnh để kiểm soát lượng ánh sáng đi qua. Chính cái lỗ có kích thước thay đổi được trên cái màng chắn đó được gọi là độ mở của ống kính và được biểu thị bằng một giá trị số học ký hiệu là f. Giá trị này quyết định lượng ánh sáng sẽ được ống kính cho đi qua và là tỷ số giữa chiều dài tiêu cự và đường kính lỗ mở trên màng chắn.
Ví dụ, ta chỉnh đường kính lỗ mở của ống kính 50mm bằng 6,25mm, ta có khẩu độ f/8 (50/6,25=8). Nói chung, cứ mỗi lần chỉnh tăng hoặc giảm khẩu độ một nấc là ta đã tăng gấp hai hoặc giảm đi một nửa diện tích của lỗ mở. Vì bản thân khẩu độ đã chứa yếu tố chiều dài tiêu cự (tử số) nên mỗi ống kính đều cho một lượng sáng như nhau đi qua nếu được đặt ở cùng một giá trị khẩu độ bất kể chiều dài tiêu cự của ống kính là bao nhiêu (tất nhiên không tính đến sự hao hụt ánh sáng vì phải đi qua nhiều thấu kính).
Dãy khẩu độ thông dụng của ống kính phim 35mm và các máy ảnh số SLR:
1.0 1.4 2 2.8 4 5.6 8 11 16 22 32
tuy nhiên phần lớn các ống kính đều không có đủ cả dãy khẩu độ trên.
Mỗi lần chuyển khẩu độ một nấc là ta tăng hoặc giảm lượng sáng đi hai lần đồng thời tăng hoặc giảm diện tích lỗ mở hai lần, chuyển từ f/2.8 sang f/4 là giảm lượng sáng đi hai lần và giảm diện tích lỗ mở hai lần, ta có một dãy số với công bội bằng 1,4 (căn bậc hai của 2) mặc dù khi in trên ống kính theo truyền thống người ta chỉ in theo dãy số trên.Ống kính của các định dạng phim lớn có thể có giá trị khẩu độ nhỏ hơn nữa như f/64 chẳng hạn.
Dãy số này có vẻ phức tạp nhưng thật ra khá đơn giản, chỉ cần nhớ hai số đầu 1.0 và 1.4, sau đó nhân đôi lên, 1.0 thành 2; 4; 8 rồi 16; 32 còn 1.4 thành 2.8; 5.6; 11 rồi 22.
Tránh lẫn, số nhỏ (2.8 chẳng hạn) tương ứng với đường kính lỗ sáng lớn, ta có nhiều ánh sáng hơn (“mở khẩu”), số to (f/22) tương ứng với lỗ sáng nhỏ, ta có ít ánh sáng hơn (“khép khẩu”). Ngoài việc làm thay đổi thời chụp, khẩu độ ảnh hưởng đến vùng ảnh rõ (DOF).
Chữ f thường được in nghiêng chỉ để cho đẹp, dấu chéo để chỉ phân số, ví dụ: f/4 chỉ độ mở bằng một phần tư chiều dài tiêu cự. Chữ f thay cho “focal”, “factor” hay “focal length” tuỳ ý thích của bạn.
Lưu ý là không phải tất cả các ống kính đều chỉnh khẩu độ bằng lỗ màng chắn. Nhiều ống kính chỉ có một khẩu độ duy nhất mà thôi. Các ống kính dạng gương phản chiếu không có lỗ mở nên không chỉnh được khẩu độ, các máy ảnh rẻ tiền- loại dùng một lần- cũng có một giá trị khẩu độ thôi.
V.17. Thế nào là các ống kính nhanh và ống kính chậm?
Đây chỉ là một thuật ngữ đời thường để chỉ giá trị khẩu độ tối đa mà ống kính có thể đạt được. Ống kính chậm có khẩu độ tối đa khá nhỏ, cho ít ánh sáng đi qua và để duy trì thời chụp tốt ta cần giảm tốc độ chụp, ống kính nhanh thì trái lại, giá trị khẩu độ tối đa khá lớn, cho nhiều ánh sáng đi qua và ta có thể để tốc độ chụp nhanh.
Khẩu độ lớn cho nhiều ánh sáng đi qua, vì vậy ta thường thích các ống kính nhanh hơn các ống kính chậm. Thứ nhất, ống kính nhanh cho phép chụp cả nơi thiếu sáng sử dụng ánh sáng tự nhiên, không cần ánh sáng nhân tạo. Thứ hai, ống kính nhanh nhìn qua khung ngắm dễ hơn vì ra có nhiều ánh sáng đi qua hơn.
Một ống kính có khẩu tối đa là f/1.4 là một ống kính nhanh, nếu chỉ đạt 5.6 thì khá chậm. Vì khẩu độ có liên quan đến cả chiều dài tiêu cự nên thường khá dễ dàng chế tạo các ống kính 50 mm nhanh (khẩu tối đa thường đạt 1.8) nhưng rất khó chế tạo các ống kính 200 có khẩu tối đa lớn như trên.
Nói chung, thiết kế một ống kính nhanh phức tạp hơn ống kính chậm nên thường đắt hơn. Chế tạo ống kính nhanh đa tiêu cự khó hơn chế tạo ống kính nhanh một tiêu cự. Ống kính nhanh thường kích cỡ lớn hơn ống kính chậm cùng tiêu cự.
Các ống kính tự động lấy nét của hệ EOS có mô tơ lấy nét đặt trong ống kính chứ không phải trong thân máy. Một số ống kính lấy nét nhanh hơn các ống kính khác, tuy nhiên đây hoàn toàn là khái niệm khác, không phải nói đến đặc tính quang học đang bàn ở trên.
 
V.18. Vùng ảnh rõ (depth of field) là gì?
Khi lấy nét lên một vật thể nào đó, vật thể này không phải là thứ duy nhất hiện lên sắc nét. Những vật thể gần hơn hoặc xa hơn vật thể chính này cũng có thể hiện nên sắc nét tuy không được như đối tượng chính. Khoảng cách giữa các đối tượng hiện hình tương đối sắc nét trên tấm ảnh cuối cùng của bạn được gọi là vùng ảnh rõ. Kiểm soát vùng ảnh rõ là một kỹ năng nhiếp ảnh quan trọng có thể tác động đến sự thu hút của tấm ảnh cuối cùng.
Bạn đang chụp chân dung ai đó ngoài trời, vị trí này cho một ánh sáng tự nhiên nhưng bạn khó kiểm soát phần hậu cảnh. Nếu bạn đang trong công viên, bạn sẽ không muốn phần hậu cảnh đầy những cành cây loà xoà, hỗn độn. Bạn muốn vùng ảnh rõ thật cạn và lấy nét vào mắt người mẫu, đó là nơi bạn muốn nét nhất. Vùng ảnh cạn sẽ đẩy các cành cây ra ngoài vùng lấy nét, bạn sẽ có một hậu cảnh mềm mại, với màu xanh dịu nhẹ.
Nhưng nếu bạn chụp một bông hoa trong tự nhiên với bầu trời, núi non hấp dẫn, bạn sẽ muốn mọi thứ hiện lên sắc nét, lúc này bạn lại muốn vùng ảnh rõ thật lớn. Có ba yếu tố giúp ta kiểm soát vùng ảnh rõ:
- Khẩu độ: Là yếu tố quan trọng điều khiển vùng ảnh rõ, khẩu độ mở lớn cho vùng ảnh rõ cạn và ngược lại. Chụp cái gì đó khi ánh sáng yếu, ta mở khẩu hết cỡ (f/1.8 chẳng hạn) để lấy được nhiều ánh sáng, vùng ảnh rõ sẽ ngắn lại và sẽ trở thành vấn đề vì việc lấy nét chính xác sẽ khó khăn hơn. Chụp ngoài trời thì ngược lại, ta hay phải khép khẩu để tránh thừa sáng, vùng ảnh rõ lớn, việc kiểm soát bố cục sẽ khó khăn.
- Chiều dài tiêu cự: Yếu tố này tạo ra nhiều khác biệt. Ống góc rộng, tiêu cự ngắn cho vùng ảnh rõ lớn hơn ống tiêu cự dài. Điều này rất có ích. Ống góc rộng chụp phong cảnh cho vùng ảnh rõ sâu, ống tiêu cự dài chụp chim muông, cho vùng ảnh rõ cạn, dễ cô lập đối tượng, tạo hiệu quả đẹp.
- Khoảng cách đến đối tượng: Nếu ta dí sát đối tượng (như khi chụp cận cảnh), vùng ảnh rõ sẽ ít và ngược lại.
Thực tế, bạn phải luôn tính toán cả ba yếu tố trên để tạo ra được hiệu quả mong muốn trên tấm ảnh của mình.
Cũng nên biết rằng cỡ phim cũng ảnh hưởng đến vùng ảnh rõ, phim lớn hoặc trung bình dễ tạo ra vùng ảnh rõ thật cạn hơn là các cỡ phim nhỏ. Đây là lý do khiến các máy ảnh bình dân dạng ngắm-chụp thường cho ảnh có chiều sâu lớn. Tuy nhiên làm chủ được tốt ba yếu tố trên bạn có thể kiểm soát vùng ảnh rõ mà không cần đổi sang máy ảnh khác.
Khái niệm về vùng ảnh rõ trên chỉ được diễn giải một cách dễ hiểu, bạn phải làm những phép toán vô cùng phức tạp mới có thể tính toán được thật chính xác, nhưng những diễn giải đơn giản như trên cũng đủ để bạn cho ra những bức ảnh đẹp.
V.19. Các con số La mã trên thân ống kính biểu thị điều gì?
Các nhà sản xuất ống kính Nhật, trong đó có Canon dùng luôn đặc tính quang học để phân biệt các ống kính khác nhau (Châu Âu theo truyền thống thường đặt tên theo kiểu của Chiến tranh giữa các vì sao để mô tả thiết kế của các ống kính như: “Tessar”, “Biogon” hay “Super Angulon”). Thỉnh thoảng một ống kính ra đời với các đặc tính cơ bản giống hệt một ống kính đang lưu hành, để phân biệt giữa các ống kính này, Canon dùng một ký tự La mã bắt đầu bằng II, vì vậy bạn không bao giờ có ống kính ký hiệu I, dù đôi khi có người nhắc đến “mark I” để chỉ ống kính đời cũ khi đời mới của nó chào đời. Cách gọi mark II, mark III… cũng khá phổ biến trong giới chơi đồ ảnh.
Đôi khi các ống kính đời mới có những cải tiến hơn ống cũ, cũng có khi lại kém hơn và thỉnh thoảng người ta phân biệt chúng bằng các đường vạch dấu. Ví dụ: Ống 50mm 1.8 II khá hơn đời trước về chất lượng chế tạo nhưng chất lượng quang học thì giống hệt, 28-80 3.5-5.6 USM II hoàn toàn kém hơn phiên bản đầu, 28-105 3.5-4.5 và 28-105 3.5-4.5 II cơ bản giống nhau, khác chút xíu bề ngoài. Các ký hiệu La mã này hoàn toàn chẳng nói lên điều gì về sự khác biệt chất lượng cả. Canon còn đánh số kiểu này cho các loa che ống kính như đã nói trên.
V.20. Sự khác biệt giữa các mô tơ lấy nét (AFD, MM, USM)?
Khác với các nhà sản xuất máy ảnh khác, Canon đặt mô tơ lấy nét trong các ống kính chứ không phải trong thân máy khi hệ thống EOS ra đời. Điều này được cho là khôn ngoan vì mô tơ này được thiết kế theo từng yêu cầu của ống kính. Một ống kính dài cần một mô tơ lớn, ống kính nhỏ hơn chỉ cần mô tơ vừa phải mà thôi. Nếu mô tơ này lắp trong thân máy, nó sẽ hoạt động y như nhau cho dù bạn lắp ống kính gì đi nữa.
Canon sử dụng nhiều công nghệ khi chế tạo các mô tơ này. Hai dạng sơ khai đầu tiên thì không được ký hiệu trên vỏ ống kính, muốn biết thì chỉ có cách tra sách mà thôi.
- Mô tơ lấy nét kiểu điện từ truyền thống: Loại mô tơ này dùng nguyên tắc điện từ thông thường để vận hành trục quay. Các vấu nhỏ và các bánh răng biến chuyển động quay thành các chuyển động cần thiết để lấy nét.
- Mô tơ dạng vòng cung (AFD- Arc-form drive): Dùng trên một số ống kính đời cũ, giá thấp. Thực chất đây là một mô tơ điện nhỏ, đơn giản kèm một bộ truyền lực, khá ồn vì tiếng vo vo của động cơ điện, tiếng nghiến của bánh răng, tốc độ hoạt động không nhanh. Khoảng cách từ mô tơ đến các thấu kính lấy nét là không lớn, các ống kính tiêu cự dài với AFD lấy nét khá chậm.
- Mô tơ siêu nhỏ (micromotor-MM): Dùng trên một số ống kính đời cũ, bình dân. Giống AFD- nó chậm và ồn, cũng dựa trên một mô tơ điện kèm bộ truyền lực, đôi khi MM còn được dùng với các dây đai bằng cao su.
- Mô tơ siêu thanh (Ultrasonic motor): Không dựa trên nguyên tắc từ tính như các mô tơ khác, nó sử dụng các dao động siêu cao tần để tạo ra các chuyển động quay. Kết quả là việc lấy nét khá nhanh và êm (tất nhiên là êm với tai người). Canon chế tạo hai dạng mô tơ này.
+ Mô tơ siêu thanh dạng vòng (Ring ultrasonic drive-USM): Chính là cái bạn cần, mô tơ này có hai vòng kim loại dao động với tần số cao. Ống kính có mô tơ này lấy nét nhanh và êm đồng thời hỗ trợ lấy nét tay toàn phần (full-time manual- FTM).
+ Mô tơ siêu thanh cực nhỏ (Micromotor ultrasonic drive): Ít ấn tượng hơn, nó là một dạng USM thiết kế cho các ống kính rẻ tiền hơn. Cơ cấu dạng này sử dụng mô tơ siêu thanh nhưng lại vẫn dùng bộ truyền lực bánh răng, các ống kính lấy nét êm nhưng không bằng loại vòng, không hỗ trợ FTM.
Tất cả các ống kính có ghi USM đều có mô tơ siêu thanh, nhưng không phân biệt được đâu là USM dạng vòng, đâu là USM dạng micromotor, muốn biến bạn phải xem kỹ đặc tính của từng ống kính. Phần lớn các ống kính không phải dòng L nhưng có USM đều được vạch một đường vàng ở đuôi ống. Tuy thế, một ống kính dòng L đều chỉ có một vạch đỏ cho dù nó có dùng USM hay không.
 
V.21. Lấy nét tay toàn phần là gì (full-time manual- FTM)?Các ống kính Canon EF lấy nét bằng AFD (arc form drives) hoặc MM (micromotor) sử dụng cơ cấu lấy nét đơn giản dựa trên mô tơ điện và truyền lực bằng một hàng bánh răng nhỏ bé. Khi chuyển hệ thống này sang điều khiển bằng tay thì sẽ ảnh hưởng đến bộ truyền lực này, để lấy nét tay ống kính có một nút chuyển để cắt rời bộ truyền lực này ra khi ta vặn vòng lấy nét thủ công. Khi ống kính đang ở chế độ lấy nét tự động bạn không thể lấy nét bằng tay.
Với hệ thống lấy nét bằng USM thì khác, ta có thể lấy nét tay toàn phần (FTM). Các ống kính này cho phép bạn lấy nét thủ công ngay cả khi nút chuyển AF/MF đang ở chế độ tự động. Đặc tính này rất hưũ ích, ta có thể điều chỉnh, xoay vòng lấy nét ngay mà không cần chuyển chế độ lấy nét bằng nút chuyển. Nhưng có vài điều cần lưu ý: Dù các ống kính đều ghi “USM” nhưng thực ra có đến ba loại USM khác nhau. USM tốt nhất sử dụng trên các ống kính dòng L và các ống trung cấp là USM dạng vòng, USM này có hai vòng kim loại dao động với tần số lớn để tạo ra chuyển động quay. Lấy nét tay toàn phần với các USM này khá dễ dàng- một ly hợp ma sát đơn giản sẽ cho phép bạn quay cả mô tơ điện khi lấy nét tay. Bạn có thể lấy nét bất kỳ lúc nào ngay cả khi máy ảnh tắt nguồn hoặc ống kính không gắn vào thân máy.
Dạng USM thứ hai, ra đời trước, lắp cho vài ống kính đời cũ và một số ống kính tiêu cự dài. Các ống kính có USM điện tử này chỉ lấy nét tay được khi thân máy được cấp nguồn. Khi bạn quay vòng lấy nét, tín hiệu điện được chuyển tới mô tơ từ thân máy, thực hiện quá trình lấy nét (gián tiếp), một số ống kính điển hình thuộc nhóm này là:
EF 50mm 1.0 L USM
EF 85mm 1.2 L USM
EF 85mm 1.2 L USM II
EF 28-80mm 2.8-4 L USM
EF 200mm 1.8 L USM
EF 300mm 2.8 L USM
EF 400mm 2.8 L USM
EF 400mm 2.8 L II USM
EF 500mm 4.5 L USM
EF 600mm 4 L USM
EF 1200mm 5.6 L USM
Dạng USM thứ ba, USM siêu nhỏ,lắp cho các ống kính bình dân không hỗ trợ lấy nét tay toàn phần vì vẫn dùng bộ truyền lực bánh răng. Nhiều người gọi hệ thống lấy nét này là USM thuần tuý, vì chỉ có mô tơ điện là dạng USM thôi, và ta chỉ tận dụng được tính chất hoạt động êm của mô tơ. Các ống kính 50mm 1.4 USM và 28-105 4-5.6 USM đời mới là những ngoại lệ, các ống kính này có các ly hợp trượt cho phép lấy nét tay toàn phần như các USM dạng vòng vậy.
Không nên lấy nét bằng tay trong khi mô tơ lấy nét đang hoạt động, ta có thể làm hỏng mô tơ hay làm nó quá tải. Cần chờ khi mô tơ ngừng hoạt động mới chỉnh bằng tay. Việc lấy nét tay cũng phải tránh khi để chế độ AI Servo, vì mô tơ có thể được kích hoạt bất kỳ luc nào.
V.22. Liệu các ống kính có USM cho ảnh đẹp hơn ống kính không có USM?
Đương nhiên, việc lấy nét nhanh và êm hơn cho phép bạn chụp được các tấm ảnh trong những điều kiện phức tạp hơn, nhưng điều này không liên quan gì tới chất lượng quang học của ống kính cả. Bạn rất dễ liên tưởng vì USM dạng vòng hay được lắp cho các ống kính cao cấp, hoặc dòng L. Ta chỉ mua được các ống kính Canon bình dân lắp USM dạng siêu nhỏ thôi. Nhưng có rất nhiều ống kính Canon đặc biệt là các ống một tiêu cự đời cũ tuy không có USM nhưng chất lượng quang học của ống rất tốt.
V.23. Hệ thống ổn định hình ảnh (image stabilization-IS) là gì?
Đây là công nghệ của Canon cho phép ống kính có những điều chỉnh quang học để khắc phục sự rung máy khi ta chụp ảnh. Việc máy bị rung- có thể do cầm tay không chắn chẳng hạn- gây nên các vết mờ trên tấm ảnh chụp ở tốc độ thấp, IS có thể làm tấm ảnh sắc nét hơn khi mà bạn không thể chụp tốc độ nhanh.
IS là công nghệ khá phức tạp liên quan đến các cảm biến chuyển động, những bộ vi xử lý và các mô tơ dịch chuyển thấu kính. Vì thế các ống kính có IS thường có giá khá cao. Nhưng đổi lại nó rất thuận tiện- khi cầm máy bằng tay bạn có thể chụp chậm đi một đến hai nấc so với ống kính không có IS.
Tuy nhiên, IS không hề làm tăng giá trị độ mở tối đa của ống kính, ống kính có độ mở tối đa là 3.5 khi lắp IS vẫn giữ nguyên giá trị 3.5. IS chỉ cho phép bạn chụp chậm hơn khi cầm máy bằng cách bù trừ độ rung của thân máy. Vùng ảnh rõ sẽ lớn hơn, và điều này có lợi hay không còn tuỳ vào mục đích tấm ảnh của bạn.
IS cũng có những nhược điểm so với các ống kính nhanh: Các thế hệ IS đầu tiên hoạt động không tốt lắm khi gắn máy lên chân đỡ, IS của các ống kính phổ thông hoạt động cũng không được tốt như IS của ống kính chuyên nghiệp khi ta chụp lia máy. IS cũng không giúp được gì nếu đối tượng chụp chuyển động vì nó chỉ bù trừ cho thân máy thôi. IS không giúp “bắt chết” đối tượng chụp và đôi khi nó còn báo hại vì cho phép ta chụp ở những tốc độ thấp so với ống kính nhanh. Một số người thấy hoa mắt khi nhìn qua khung ngắm của ống kính có IS đang hoạt động, và đương nhiên IS ngốn thêm năng lượng của pin. Cuối cùng, các thân máy EOS phim trước đây không hoàn toàn tương thích với ống kính IS, thậm chí còn đôi chút bất tiện, ví như khung ngắm rung lên mỗi khi nhấn nút chụp (nhưng hiện tượng này không ảnh hưởng đến chất lượng ảnh).
Bên cạnh các nhược điểm, IS còn có rất nhiều ưu điểm, nhất là với các ống kính tiêu cự dài.
Canon là hãng đầu tiên áp dụng công nghệ ổn định hình ảnh lên các ống kính SLR, mặc dù Nikon mới là hãng đầu têu trong lĩnh vực này khi phát triển máy ngắm chụp dùng ống kính có ổn định hình ảnh (máy Zoom-Touch 105 VR) năm 1994. Ngày nay, Nikon bán nhiều ống kính rời có VR (vibration reduction- giảm rung) chỉ khác là nhắm vào thị trường cao cấp nhiều hơn, trong khi Canon bán ống kính IS cho cả thị trường cao cấp và phổ thông. Sigma cũng có các ống kính có đặc tính này, Panasonic thì phát triển hệ thống Mega Optical Image Stabilizer (Mega OIS) cũng là chức năng giảm rung. Minolta thì phát triển công nghệ chống rung gọi là Super SteadyShot nhưng lắp trong thân máy thay vì trong ống kính, lúc này hệ thống hoạt động với mọi ống kính lắp được cho thân máy, nhưng lại không chuyên biệt cho từng dải tiêu cự khác nhau.
V.24. Dữ liệu về khoảng cách là gì, ống kính nào hỗ trợ?
Nhiều ống kính EF có thể gửi các dữ liệu về khoảng cách cho thân máy, ví dụ bạn đang lấy nét vào đối tượng cách 4m, thì ống kính sẽ gửi một khoảng cách xấp xỉ tới thân máy.
Canon bán các ống kính này từ những năm 1990, đến năm 2004 thì ngừng do sự xuất hiện của hệ thống đo sáng flash E-TTL II. Trong tình huống cụ thể, E-TTL II có khả năng lấy được các dữ liệu về khoảng cách nhờ việc tính toán bằng đèn flash.
V.25. Thế nào là các phần tử của ống kính ?
Thuật ngữ này dễ gây nhầm lẫn. Từ “ống kính” để chỉ cả một cơ cấu gồm các thấu kính được tạo dáng (có thể hình dung chúng như một cái kính lúp vậy) và phần vỏ ngoài hình trụ chứa các thấu kính này.
Một phần tử của ống kính chỉ một thấu kính đơn lẻ bằng thuỷ tinh hay bằng các tinh thể. Các ống kính máy ảnh thời nay chứa ít nhất 4 phần tử như thế, thường được chia thành từng nhóm một. Bạn có thể nghe nói một ống kính nào đó có 18 phần tử chia thành 15 nhóm.
Thiết kế lên một ống kính rất phức tạp và số lượng các phần tử cũng như các nhóm không biểu thị chất lượng hình ảnh. Một ống kính đơn giản với ít phần tử có thể cho ảnh đẹp hơn các ống kính phức tạp khác, vì nó ít gây loé (hiện tượng ánh sáng phản xạ giữa các phần tử ống kính). Tuy nhiên, các ống kính góc rộng và tiêu cự dài đòi hỏi nhiều phần tử hơn để tinh chỉnh đường đi của ánh sáng, khắc phục các hiện tượng quang sai.
 
Status
Not open for further replies.

Hỏi Phượt

Forum statistics

Threads
55,677
Bài viết
1,171,179
Members
192,354
Latest member
yensondathach321
Back
Top