What's new

[Chia sẻ] Trekking in Himalayas

Hành trình này chúng tôi đã thực hiện từ cách đây tròn nửa năm. Nửa năm qua, chẳng quá ngắn cũng chẳng quá dài, đủ để quên những thứ cần quên, và không bao giờ đủ để xóa nhòa những ký ức cần nhớ.

Những ngày cuối tháng 3, nằm trên giường bệnh và nhìn về phía ô cửa sổ, nơi những mầm xanh khẽ đu đưa trong gió, tôi gặp lại chính mình trong những ngày dài rong ruổi trên vùng thánh địa của núi non - nóc nhà của thế giới. Cũng là tôi một ngày xưa cũ, trên một chiếc giường đơn độc nơi căn phòng tối, nhìn xa xăm về những dãy núi phủ trắng tuyết và ứa nước mắt vì cơ thể yếu đuối trì trệ khiến cho giấc mơ không thành hiện thực.

Himalayas - cái tên đã trở thành tượng đài với những kẻ ưa trek, leo trèo và phiêu lưu mạo hiểm. Đối với tôi, ấy là giấc mơ lớn trong đời. Từ lâu tôi đã mơ được đặt chân lên vùng đất bất tử của những ngọn núi cao nhất thế giới, cảm nhận dư vị của biết bao huyền thoại đã đến và đi, và được trải lòng mình với tất cả sự khoáng đạt bao la của núi non đất trời.

Để tôi cảm thấy là chính tôi nhất, tự do nhất, đối lập nhất, điên rồ nhất và cũng yếu mềm nhất.


Trên đường trek đến Chukkung

dsc0728i.jpg



Me in front of a stone house

dsc0751z.jpg
 
Ngày 1: Kathmandu - Lukla - Phakding (P4)

Nama nói hôm nay chúng tôi sẽ chỉ trek nhẹ nhàng làm quen. Quãng đường từ Lukla đến thị trấn nhỏ Phakding chỉ tốn 3-4 tiếng trek đối với người thể lực trung bình như tôi. Con đường trek đi qua những vạt đồi bậc thang xanh mướt, qua 1 vài khu làng, chạy men theo triền núi rồi đi dọc sông Dudh Kosi trước khi đến Phakding. Trời mùa thu trong xanh, rọi những tia nắng ấm áp trên những khóm hoa cúc, hoa bướm, thược dược mơn man bên bờ rào đá. Thi thoảng tôi lại khiến những người bạn đồng hành phải chờ đợi vì mải mê nhìn ngắm và chụp chẹp những khung cảnh rất đỗi thơ mộng ấy.

Trên đường đi, chúng tôi bắt gặp những phiến đá lớn, trên đó khắc kín dòng chữ cầu nguyện của Phật giáo (Sanskrit symbols): "Om mani padme hum". Đây là câu mantra (thần chú) đại diện cho 6 giới: OM (giới Phật), MA (thánh thần), NI (con người), PE (loài vật), ME (ma quỷ), HUM (địa ngục). Người ta thường đi vòng quanh những phiến đá này theo chiều kim đồng hồ rất nhiều lần để cầu nguyện. Đối với dân trek, nếu ko đi vòng quanh thì chúng tôi sẽ đi qua ở phía bên trái và đi về ở phía bên phải. Nói chuyện với bạn guide, tôi được biết những phiến đá khắc câu thần chú này được các vị già làng trưởng bản tỉ mỉ đục đẽo từng chút một. Những dấu ấn của Phật giáo được in đậm tại mỗi ngôi nhà, phiến đá, dọc theo những cây cầu treo kín cờ phướn. Đôi khi chúng tôi bắt gặp những ngôi miếu cầu tự nhỏ, bên trong là những chuyển luân kinh to lớn. Dân trek đi qua thường quay chuyển luân kinh theo chiều kim đồng hồ để cầu mong may mắn cho chuyến đi.

dsc006611.jpg


dsc006811.jpg

Cuộc sống bình dị diễn ra sau những ô cửa gỗ hay những bờ rào đá. Đa số người dân nơi đây kiếm sống bằng các dịch vụ cho du khách, nhưng vẫn còn khá nhiều người quyết tâm “cải tạo thiên nhiên”, biến những triền núi gồ ghề thành những thửa ruộng bậc thang màu mỡ. Sắp vào mùa đông, tôi có thể thấy những khu vườn xanh um cải bắp, cải xanh hay súp lơ. Địa hình khu vực này cũng không thực sự thích hợp cho việc chăn nuôi. Bò Yak chỉ được nuôi để vận chuyển hàng hoá. Gà chỉ được nuôi để lấy trứng.

dsc01251ic.jpg

Thi thoảng, chúng tôi bắt gặp những toán trẻ con má rám nắng mỉm cười bẽn lẽn khi khách đi qua, rồi chạy vèo biến mất sau lưng mẹ khi máy ảnh giơ lên, chỉ còn lại đôi mắt đen lay láy ngấp nghé ngó nhìn. Lúc nghỉ trưa ở một ngôi nhà xinh đẹp xung quanh trồng đầy hoa, tôi cứ tưởng tượng ra mỗi buổi chiều tà khi sự nhộn nhịp và những tiếng lao xao của khách du lịch biến mất, khi chỉ còn lại sự yên ả và bình lặng của núi rừng, cả gia đình sẽ quây quần tại phòng khách, nơi sực lên mùi mỡ và cái mùi đặc trưng của phân bò khô cháy, nhâm nhi những cái ly bốc khói.

Đôi lúc tôi cũng ước gì cuộc sống của mình chỉ đơn giản vậy.

Đúng như lời Nama nói, quãng đường trek hôm nay khá nhẹ nhàng với khá nhiều đoạn đi xuống. Rời Lukla từ hơn 11h sáng, kể cả thời gian nghỉ ăn trưa, chúng tôi đến ngôi làng Phakding vào khoảng 3h chiều. Porters của chúng tôi đã đến trước đây từ lâu, đồ đạc đã được đưa cả vào phòng. Ba đứa được cho vào 1 căn phòng nhỏ, chỉ có mỗi 3 cái giường đơn và một ngọn đèn leo lét sáng. Thấm mệt, mỗi đứa chui ngay vào cứ địa của mình và cuộn tròn trong những chiếc chăn lạnh cóng, nằm chờ đến bữa tối.

Nama gõ cửa phòng chúng tôi vào lúc 6h tối, lùa cả bọn ra phòng khách. Bước vào trong đã thấy râm ran tiếng trò chuyện của rất đông khách du lịch, cả một Liên hợp quốc các ngôn ngữ và lứa tuổi. Ở giữa phòng là một chiếc lò sưởi với ống khói chọc lên khỏi mái nhà. Xung quanh phòng kê những chiếc bàn dài chạy dọc theo tường. Nama đã giữ sẵn cho chúng tôi một chiếc bàn trống. Tôi chỉ nhớ bàn tay mình đã ấm lên như thế nào khi áp vào cốc trà gừng và bát súp nóng hổi, để rồi khi quay về phòng lại run lên khi sờ vào cái chăn lạnh cóng. Từ ngày hôm ấy, chúng tôi đều lên giường đi ngủ vào lúc 8h tối để giữ sức cho những ngày sau.
 
Không phải là tớ like có trách nhiệm đâu nhé , quả thực là một sự trải nhiệm tuyệt vời , và đáng để mơ ước !!!
 
Last edited:
Ngày 1: Kathmandu - Lukla - Phakding (P4)

Một số hình ảnh trên đoạn đường trek Lukla - Phakding

1.
dsc10191.jpg

2.
dsc00591bv.jpg

3. Porters với những giỏ đồ cao hơn người
dsc10201a.jpg

4.
dsc00471xy.jpg

5. Sông Dukh Kosi
dsc00761l.jpg
 
Ngày 2: Phakding - Namche (P1)

Đêm qua, nhiệt độ ngoài trời phải dưới 0 độ C.

6h30 sáng, tôi ra ngoài đánh răng rửa mặt và thấy những mảng băng mỏng manh vương trên cỏ, trên lối đi và cả trên những bụi cây lùn. Nước rửa mặt lạnh cóng, khiến đôi tay tôi thò ra rồi rụt lại ngay lập tức. Táp nước lên mặt mà có cảm tưởng 1 bọc kim thi nhau châm chích. Rùng mình.

Hôm nay là một ngày trek dài. Quãng đường trek dự kiến đến Namche Bazaar mất khoảng 6-7 tiếng, trong đó 3 tiếng cuối được cảnh báo sẽ chỉ toàn lên dốc. Chúng tôi sẽ phải đi từ độ cao 2600m ở Phakding đến 3400m ở Namche Bazaar.

8h sáng, chúng tôi bước ra ngoài khởi hành và lần lượt đi qua những cánh rừng thông, những ngôi làng nhỏ dọc sông Dudk Kosi, qua những vườn táo lúc lỉu quả, qua những con dốc mệt nhoài đôi chân. Trên những ngọn đồi, người ta canh tác và trồng kín lúa mạch, khoai tây. Hàng trăm dải cờ phiến cầu nguyện được giăng dọc triền đồi, những tu viện cổ hay bên cạnh những phiến đá cầu nguyện trên những đèo cao.

Dọc đường đi, chúng tôi phải qua 4-5 cây cầu sắt vắt qua hai bờ của con sông uốn lượn như một con rắn khồng lồ lấp lánh vẩy bạc. Những cây cầu được chính phủ một vài nước phương Tây hỗ trợ xây dựng đã giúp giảm thiểu rất nhiều khó khăn và nguy hiểm khi đi qua dòng nước chảy xiết. Cảm giác dập dềnh khi chiếc cầu rung lên bởi sự cộng hưởng của nhiều nhịp chân, cảm giác hun hút khi nhìn xuống dòng chảy hung dữ của con sông Kosi phía dưới, hay cảm giác sờ sợ xen lẫn thích thú lúc nép mình nhường đường cho từng đàn bò Yak đi qua là những kỷ niệm không thể quên đối với tôi. Những cây cầu vắt vẻo trên cao treo đầy cờ phiến ấy đã trở thành một nét đặc trưng khó lẫn của các cung đường trekking tại Nepal.

dsc0147ss.jpg

Quãng đường từ Phakding đến Namche Bazaar có lẽ là đoạn đường nhộn nhịp nhất của vùng Solu Khumbu. Ngoài dân trek chiếm số lượng lớn, còn là porter với những bọc đồ to gấp đôi người họ trên lưng, là những vị tu hành áo choàng đỏ, và không thể thiếu từng đàn bò Yak đông đúc chở những túi hành lý hoặc thực phẩm đủng đỉnh đi lại, vãi phân đầy đường. Với những kẻ mải mê săn bắt con nghệ thuật cứ dán mắt vào những khung cảnh khi thì hùng vĩ khi thì nên thơ dọc đường, rất có thể sẽ gặp tai nạn khi trek bởi nguy cơ vấp ngã và dẫm phải phân bò yak. Phân bò yak phơi khô là một nguyên liệu để đốt rất phổ biến ở những vùng cao lạnh giá thế này, giống y như bên Tây Tạng.

Hoa thược dược trên đường đi
dsc01101ek.jpg

En route

dsc01301ye.jpg

Trước khi chạm cửa ngõ Namche Bazaar, chúng tôi có dịp chiêm ngưỡng Everest lấp ló từ phía xa, ẩn hiện mờ ảo qua những mảng mây nhạt. Người Tây tạng gọi nó là Chomolungma, phương Tây gọi Everest, còn đối với người Sherpa, họ gọi đỉnh núi cao nhất thế giới này bằng cái tên đầy kính nể và trìu mến: Sagamathar, tức Goddest of the sky - Vị nữ thần của bầu trời. Nàng đẹp, lạnh lùng, kiêu sa, và chỉ có những kẻ gan góc nhất với một trái tim phóng khoáng và tâm hồn rộng mở nhất mới có thể chinh phục.

Đôi khi tôi cũng thắc mắc tại sao núi (Mountain) - một thứ gồ ghề, gai góc, xù xì, cao lớn lại được gần như mọi dân tộc, mọi nền văn hóa cùng đặt trong 1 quy chuẩn là giống cái. Phải chăng vì vẻ đẹp khó cưỡng, vì sự thay đổi tính nết khó lường, vì mang đến những cảm giác chinh phục và chiến thắng?
(đoạn này hơi nhảm tí :D)
 
Ngày 2: Phakding - Namche (P2)

Một số hình ảnh trên đường trek đến Namche Bazaar

1. Thamserku Mt. sừng sững phía trên con sông Dukh Kosi

dsc01211e.jpg

2. Dọc sông Dukh Kosi

dsc01551lu.jpg

3. Cầu treo, dòng sông và đường trek

dsc0166h.jpg
 
Namche Bazaar

Hơn 3h chiều chúng tôi mới chạm cửa ngõ Namche Bazaar sau rất nhiều dốc nối tiếp dốc.

Namche Bazaar là thủ phủ hành chính của khu vực Solu Khumbu, đồng thời cũng là “vương quốc” của tộc người Sherpa. Trước đây, nó đóng vai trò quan trọng trong việc giao thương hàng hóa với Tây Tạng và phiên chợ ngày thứ 7 vẫn luôn thu hút rất nhiều người dân từ những vùng xa xôi đến trao đổi buôn bán, cũng như khách du lịch đến chiêm ngưỡng và tìm hiểu.

Nhiều người nước ngoài vẫn thường nhầm tưởng người Nepal đều là Sherpa, nhưng thực ra chỉ có khoảng hơn 20,000 người Sherpa trên toàn Nepal (so với dân số khoảng 30tr người). 4-5 thế kỷ trước đây, người Sherpa từ Tây Tạng đã di cư xuống phía Nam, và giờ đây làng của người Sherpa nằm rải rác quanh dãy Himalaya ở phía đông Nepal, trong đó tập trung đông nhất là ở Khumbu với thủ phủ là Namche Bazaar. Những nơi này hoàn toàn không có dấu vết của những vệt bánh xe hay bất cứ phương tiện đi lại trên đường nào. Ngoại trừ máy bay trực thăng, tất cả sự di chuyển – vận chuyển đều dựa vào đôi chân lầm lụi của con người và gia súc.

"Sau này con sẽ leo Everest"
dsc01371kqe.jpg

Thời tiết khắc nghiệt, lạnh giá, địa hình hiểm trở, dốc cao đã khiến cho nông nghiệp kém phát triển tại khu vực này. Người dân ở đây từ xưa sống chủ yếu bằng việc giao thương với Ấn Độ, Tây Tạng và nuôi bò yak. Tuy thế, mọi sự thay đổi kể từ sau khi Everest được công bố là ngọn núi cao nhất thế giới vào cuối thế kỷ 19. Năm 1921, Anh quốc dẫn đoàn thám hiểm Everest đầu tiên đặt chân đến đây và phát hiện ra họ có thể thuê người Sherpa trợ giúp đắc lực cho chuyến đi do sự thích nghi cơ thể đặc biệt, sự chăm chỉ, thông minh, can đảm và lành tính của họ. Mọi chuyện bắt đầu thay đổi với người dân và cuộc sống vùng Solu Khumbu.

Hai thập kỷ gần đây, sau khi Nepal mở cửa lại vào năm 1949, kinh tế và văn hóa ở khu vực Khumbu đã dần dần gắn liền với sự xuất hiện của những người leo núi và thám hiểm. Người ta ước tính hàng năm có khoảng gần 20,000 khách đến khu vực này. Những người Sherpa có nhiều kinh nghiệm leo núi, đặc biệt là những ai đã lên được Everest và các đỉnh cao khác, được kính trọng và có thu nhập tốt.

Với một chuyến leo Everest trong 2 tháng, một người Sherpa có kinh nghiệm và kỹ năng tốt có thể kiếm được khoảng 3-4000$ (Chú thích: chi phí leo Everest cho 1 khách khoảng 75,000-100,000$; 1 đoàn leo sẽ cần từ 6-10 Sherpas) - 1 khoản vô cùng hấp dẫn so với thu nhập bình quân đầu người chỉ 458$/năm tại Nepal.

Tuy nhiên, cái gì cũng có giá của nó. Thu nhập cao đồng nghĩa với nguy hiểm lớn. Năm 1922 trong lần thám hiểm thứ 2 của đoàn Anh quốc tại Everest, 7 người Sherpas đã bị chết trong 1 trận lở tuyết. Tính trung bình, số người Sherpa thiệt mạng chiếm khoảng 1/3 các vụ thương vong từ trước đến nay ở Everest. Thế nhưng bất chấp hiểm nguy, người ta vẫn cạnh tranh nhau để có suất đi trong bất kỳ 1 đoàn thám hiểm Everest nào.

“Nghề” leo núi cũng trở thành nghề “hot” nhất tại đây. Những người đàn ông trưởng thành và kinh nghiệm sẽ truyền lại các kỹ năng cho con cháu họ. Lớn lên chút nữa, chúng sẽ mong muốn có 1 suất trong trường đào tạo về các kỹ năng leo núi (Khumbu Climbing School). Tại đây, người ta sẽ dạy mọi điều cần thiết để trở thành 1 người hướng dẫn/ phụ việc chuyên nghiệp. Người Sherpa đã có những tố chất thiên bẩm trong việc chinh phục những đỉnh cao khắc nghiệt nhất, cái họ thiếu chỉ là kỹ năng và những chỉ dẫn để bảo đảm an toàn hơn cho bản thân, đồng đội và khách hàng của mình. Yếu tố tiền bạc quan trọng với họ, song tôi cảm thấy cái căn nguyên lớn hơn là tình yêu thuần khiết với mảnh đất họ sinh ra, nơi những đỉnh núi được tôn kính như những vị thần. Đối với họ, đó còn là cách thể hiện niềm tự hào dân tộc, giữ gìn và tiếp nối những truyền thống đáng được kính trọng từ cha ông để lại.

Giao thương và sự góp mặt của dân leo núi từ khắp nơi trên thế giới đã mang tới ngoại tệ và cho Namche Bazaar 1 bộ mặt khác. Nhiều nhà trọ, quán ăn, cửa hàng mọc lên khắp nơi ở đây. Tivi rồi internet cũng xuất hiện. Người ta cũng dần dần thay thế các bộ quần áo truyền thống bằng những bộ quần áo tiện dụng của phương Tây.

Sự thay đổi về văn hóa, môi trường không khiến cho người dân ở đây phiền lòng. Tiền mặt từ các nhà leo núi; tiền trợ giúp từ các tổ chức cứu trợ do các nhà leo núi đứng sau đã giúp xây dựng và mở rộng trường học, bệnh viện, xây cầu, mang điện và văn minh đến cho khu vực này.

Namche Bazaar cũng là nơi cuối cùng có thể “tận hưởng” sự tiện nghi như máy rút tiền, quầy đổi tiền, các tiệm ăn tây .. vv trước khi bước vào những vùng xa xôi hẻo lánh với những điều kiện ăn ở hết sức cơ bản.
 
Namche Bazaar (tiếp)

Cửa ngõ vào Namche Bazaar

dsc01981hz.jpg

Chúng tôi tiến gần hơn vào trung tâm Namche Bazaar, có thể thấy rõ sự tấp nập và đông vui diễn ra quanh đây. Hàng quán, café, bar san sát, đâu đó vang lên tiếng nhạc cầu nguyện réo rắt lẫn với những hit mới nhất của nhạc quốc tế. Namche Bazaar cũng là nơi cuối cùng để dân trek tút tát lại đồ đạc của mình chuẩn bị cho chuyến đi. Tuy nhiên so với giá cả ở khu Thamel tại Kathmandu thì ở đây cũng chẳng rẻ hơn là bao.

Dân tình có thể tìm thấy hầu hết các dụng cụ đồ đạc từ các thương hiệu đồ outdoor nổi tiếng thế giới như The North Face, Marmot, Millet, Mountain Hardware, Jack Woflskin, Lafuma vv. Tuy đa số không phải hàng chính hãng nhưng được gia công lại bằng các chất liệu ngoại nhập, theo LP thì chất lượng cũng phải bằng 70-80% hàng authentic. Các đồ này chỉ dành cho đa số dân trek thông thường. Còn đối với những chuyến thám hiểm tại những nơi có địa hình lạnh giá và hiểm trở, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị tốt nhất về thiết bị dụng cụ, thì đồ authentic vẫn là lựa chọn duy nhất và bắt buộc. Có đi đến những nơi khắc nghiệt tận cùng ấy mới thấy rõ giá trị của đồ chính hãng với những công nghệ tân tiến là thế nào. Đôi khi, đó là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của chuyến đi.

Namche Bazaar nhìn từ guest house của chúng tôi

dsc0997ex.jpg

Đường xá ở Namche Bazaar là những con dốc ngược. Từ trung tâm leo lên nhà nghỉ của chúng tôi cũng khiến mấy đứa thở hồng hộc, kêu thấu trời. Bù lại, từ đó có thể quan sát được toàn bộ thị trấn trong một vòng cung tuyệt đẹp. Ba đứa lại ở một phòng, mỗi đứa một góc nằm quấn chăn nghỉ ngơi chờ ăn tối. Một ngày sắp qua đi.
 
Ngày 3: Thích nghi độ cao ở Namche Bazaar

Hôm nay là ngày thích nghi độ cao ở Namche Bazaar (3400m). Đối với những người leo núi, thích nghi độ cao là một việc tối cần thiết để cơ thể thích nghi dần dần được với những thay đổi về áp suất không khí. Cách thông dụng nhất để “ứng phó” với độ cao là “leo cao ngủ thấp”, vậy nên theo lịch trình hôm nay, chúng tôi sẽ trek lên Khumjung cao khoảng 3600m và tối lại về Namche Bazaar (3400m) để ngủ.

Trước đây tôi đã từng nhiều lần lên các độ cao từ 3000-4000m và không gặp bất cứ vấn đề gì. Rồi ngay trước chuyến trek này, tôi cũng đã lang thang gần 2 tuần bên Tây Tạng, từng lên và ở độ cao hơn 5000m trong tình trạng sức khỏe bình thường, vậy nên tôi cảm thấy lạ kỳ khi sáng nay thức dậy, tôi bắt đầu có vài dấu hiệu nhỏ của hội chứng độ cao. Thỉnh thoảng cử động, đầu tôi đau nhói. Tôi đã nghĩ rằng cơ thể mình đã đủ để thích nghi, song có lẽ quãng thời gian không được khỏe ở Kathmandu đã kéo thể trạng tôi xuống đáng kể.

Thung lũng Khumjung là khu vực nằm phía trên Namche Bazaar, là nơi có thể nhìn thấy trọn vẹn Everest cùng các đỉnh núi cao khác của dãy Himalaya. Chúng tôi bảo với Nama buổi sáng sẽ ở nhà nghỉ ngơi, còn chiều sẽ đi trek để tiện ngắm hoàng hôn luôn. Không ngờ, đó là một quyết định sai lầm. Từ sáng đến trưa, trời nắng đẹp rực rỡ, ngó cổ ra cửa thấy dân tình nườm nượp đi qua đi lại. Tuy nhiên ăn trưa xong, mây mù bắt đầu kéo đến phủ kín bầu trời. Chúng tôi nhìn nhau chưng hửng. Nama thì nhún vai theo kiểu “Tao đã nói là đi từ sáng rồi mà bọn mày không nghe”. Chờ một lúc nữa vẫn không thấy khá hơn gì, nhưng chúng tôi vẫn quyết định trek lên cao để xem tình hình, dù sao thì cũng cần cho việc thích nghi độ cao của cơ thể.

Nama dẫn chúng tôi leo qua những con dốc dài ngoằn ngoèo xa dấn thị trấn. Chúng tôi bắt đầu leo lên một quả núi nhỏ để lên Khumjung. Từ trên cao ngó xuống, Namche Bazaar trở nên đẹp hơn bao giờ hết. Bốn bề bao bọc bởi những dãy núi cao, thị trấn nằm lọt thỏm trong thung lũng. Những ngôi nhà san sát bám lấy triền núi tạo thành một vòng cung uốn lượn thật đẹp.

Do you wish to live upon here?

dsc0239nt.jpg



At some points in my life. YES!

dsc0236iu.jpg

Lên tới Shangboche, trời vẫn mù mịt mây. Shangboche vốn là một phi trường nhỏ để chở hàng hóa và những người muốn đến base camp nhanh. Đây cũng được coi là 1 trong những phi trường cao nhất thế giới. Từ đây có thể nhìn thấy rõ Everest (8850m), Ama Dablam (6856m), Thamserku (6608m), Nuptse (7879m), và Lhotse (8383m – cao thứ 4 thế giới). Tuy nhiên trong hôm nay thật đáng tiếc chúng tôi không nhìn thấy gì. Trời càng về chiều, gió càng thổi mạnh, lạnh buốt. Chúng tôi cố ngồi chờ mây tan đi nhưng vô vọng, cũng không lên đến tận Khumjung nữa, cả bọn lục đục đi xuống. Nama an ủi bảo sáng hôm sau chắc chắn sẽ có view đẹp trên quãng đường trek tới Tengboche.

Tối đến, cơn đau đầu của tôi xuất hiện trở lại.
 

Hỏi Phượt

Forum statistics

Threads
55,671
Bài viết
1,171,028
Members
192,336
Latest member
hakhaclinh
Back
Top