Ngày hôm sau mình dậy sớm lúc 6h, đi xuống chỗ hẹn với bác xe ôm. Ở đây làm giá thuê xe nguyên ngày 120 ngành, có người chở đi cũng 120 ngành không cần đổ xăng nhưng phải cho người ta ăn, mình ăn gì cho người ta ăn nấy. Đầu tiên ghé bên xe mua vé xe Mai Linh chiều ngược về Cà Ná Phan Rang cho yên tâm, sau đó tìm chỗ ăn sáng. Qua đường Đào Tấn (?) gần Nhà hát Tuồng thấy có quán cháo lươn có vẻ đông khách, mình đi phượt tìm chỗ ăn cứ thấy chỗ nào đông là nhào dzô kiếm ăn thôi, quán chắc là của gia đình diễn viên tuồng thấy treo ảnh ba anh em nghệ sỹ cởi trần, cháo lươn kiểu Nghệ An ăn cũng ngon, lúc tính tiền chỉ có 7 ngàn/bát rẻ bất ngờ. Tiếc là không ở Quy Nhơn lâu để xem tuồng.
Buổi sáng mát mẻ, anh Nam lái xe ôm trước là thợ may nhưng nay thích bay nhảy nên đi lái xe ôm bảo đi Bảo tàng Quang Trung trước. Đi qua một cái hồ rất đẹp, anh Nam bảo tên hồ này là Ao cá Bác Hồ, ở đâu có nhiều cá thì người ta gọi là Ao cá Bác Hồ như kiểu ở đâu có nhiều tiền thì người ta gọi là Ngân hàng Nhà nước. Đi đường 1A rồi rẽ lên đường đi DakLak. Có những chiếc xe chở khách chạy qua, bóp còi ầm ĩ, phụ xe hét inh ỏi như đoàn diễu hành carnaval, lại nhớ bài hát gì mà đời người con gái không giống như đàn ông, đời người lái xe khách chắc cũng không giống như đàn ông nên người ta buồn, phải cố tình huyên náo vậy. Có quãng đường bụi phải dừng lại mua khẩu trang đeo.
Thị trấn Phong Phú rất sầm uất, phong phú. Đi qua cầu đến Bảo tàng nằm bên sông có bãi đất rộng chắc để tổ chức lễ hội. Anh Nam bảo mùng 5 Tết ở đây tổ chức hội to lắm, có cả voi cả ngựa. Vào Đền thờ nhà Tây Sơn thấy ở giữa có tượng ba anh em, hai bên là tượng các tướng Võ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu là ba võ tướng cùng quê với Nguyễn Huệ thích hoa huệ; ba quan bên kia là quan văn từ đất Bắc. Trong Đền có bài văn bia hoành tráng đọc thấy Hoàng đế Quang Trung cũng hoành tráng phết thống nhất đất nước đánh Thanh đánh Xiêm đủ cả.
BÀI KÝ TÁN TỤNG CÔNG ĐỨC
VUA QUANG TRUNG
Đức Vũ Hoàng:
Họ Nguyễn húy Huệ.
Ứng hùng năm Quý Dậu (1753)
Thừa long năm Nhâm Tỵ (1792)
Thọ 40 tuổi, ở ngôi 5 năm.
Niên hiệu Quang Trung.
Miếu hiệu Thái Tổ Vũ Hoàng Đế.
Tổ tiên vốn người Châu Hoan, dời vào ấp Tây Sơn được bốn đời. Trước ở Phú Lạc, sau xuống Kiên Thành. Buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây Kỳ cơ chỉ.
Vũ Hoàng có ba anh em:
Anh là vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, thiệp thế đa mưu.
Em là Đông Định Vương Nguyễn Lữ, thành tín nhân hậu.
Còn Vũ Hoàng:
Sức mạnh cử đảnh, tài dụng binh như thần. Lại sùng thượng kinh văn, quý trọng đạo lý. Kẻ cao tài đại đức được tôn kính vào bậc thầy. Văn võ dưới cờ đều những trang khai quốc tuấn kiệt.
Thân bố y, tay trường kiếm, Vũ Hoàng gồm cả khí tượng họ Hạng, họ Lưu.
Quả là cái thế anh hùng vậy.
Năm Tân Mão (1771), thống tâm vì cảnh đất chia nước loạn, trăm họ hết chỗ đặt tay chân, ba anh em Vũ Hoàng chiêu tập nghĩa binh, chịu gian nan mà dấy nghiệp. Lấy thành Quy Nhơn làm căn cứ. Rồi đánh vào Nam, tiến ra Bắc. Lòng xa gần đều theo. Trăm trận trăm thắng. Thanh thế nhà Tây Sơn lẫy lừng.
Riêng Vũ Hoàng:
Bốn lần bạt thành Gia Định. Ba lần vào thành Thăng Long. Thắng chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh. Thu non sông về một mối, dựng nên cơ nghiệp Võ Thang.
Lại hai phen thảo quân xâm lược:
Năm Giáp Thìn (1784) quét sạch 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong rước tới.
Năm Kỷ Dậu (1789), đánh tan 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Ký khất lân thỉnh về.
Nhờ vậy mà dân tộc thoát ách vong nô.
Nhờ vậy mà Tổ quốc vững nền độc lập.
Công thật cao như Trường Sơn.
Ân thật sâu như Nam hải.
Non sông đãng định, Vũ Hoàng chăm lo việc trị bình.
Đắp quốc cơ theo tôn chỉ phú cường. Sửa chính sự cho kỷ cương nghiêm túc. Dùng chữ Nôm lập quốc gia văn tự. Lập Sùng Chính viện để đào tạo nhân tài.
Và cái nhục cống người vàng cho Trung Hoa rửa xong. Vũ Hoàng luyện tướng nuôi binh, quyết khôi phục phần đất Lưỡng Quảng.
Nhưng than ôi!
Năm sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá,
Chín tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa.
Khiến nhà Tây Sơn lâm vào bước suy vong!
Khiến nước Việt Nam lỡ mất cơ cường thịnh!
Tuy nhiên,
Danh Vũ Hoàng vẫn cùng mặt trăng, mặt trời mà sáng,
Và nhân dân Việt Nam vẫn ca rằng:
Non Tây áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
Tiết trọng Xuân năm Tân Sửu (1961)
Nhân dân Bình Khê cẩn ký.
Cái làm nên giá trị của Điện Tây Sơn không phải là kiến trúc mà là những ý nghĩa lịch sử to lớn của nó. Đây là nền nhà cũ của ông bà Hồ Phi Phúc - Nguyễn Thị Đông, nơi ba anh em đã cất tiếng khóc chào đời, đã cùng đi qua tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành rồi phất phất cờ khởi nghĩa trở thành những lãnh tụ kiệt xuất của nông dân và dân tộc vào cuối thế kỷ XVIII.
Hiện nay trong khu vườn cũ của gia đình anh em Tây Sơn, may thay, vẫn còn lại hai di tích cực kỳ qúy giá, là cây me cổ thụ và giếng nước xưa, tương truyền có thời Hồ Phi Phúc. Hai cây me cổ thụ bên cạnh điện Tây Sơn cành lá xum xuê che lợp cả một bóng vườn. Trong đó có cây me ở bên trái điện nhiều tuổi hơn, gốc cây có chu vi tới 3,5m.
Trong 39 năm ngắn ngủi của cuộc đời mình, Nguyễn Huệ tên thật là Hồ Thơm đã kịp làm Hoàng đế 4 năm, có sáu vợ chính thức có thể kể tên và hơn 20 con.
Bảo tàng Quang Trung không có nhiều hiện vật lắm, xem sa bàn các căn cứ của nhà Tây Sơn buổi đầu cũng khá xúc động, khởi nghĩa từ một huyện miền núi, lúc đầu phải chạy lên núi, sau lớn mạnh dần xuống chiếm lại huyện nhà rồi đánh ra Quy Nhơn, Phú Xuân. Hiện vật chủ yếu của Bảo tàng chắc là các loại cây cối do các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước trồng từ Uỷ viên Bộ Chính trị Nguyễn Đình Tứ năm 1980 đến Tư lệnh Quân khu mình không nhớ tên. Cả ba anh em Tây Sơn hoá ra đều họ Hồ chạy từ Nghệ An vào. Công nhận họ Hồ hoành tráng.
Bên cạnh Bảo tàng là Nhà biểu diễn võ thuật, có anh múa may cây gậy động tác cực biểu diễn nhưng mình nghĩ trình độ phọt phẹt như mình cầm hòn gạch vào có khi đập anh phát chết tươi. Lên nhà rông Ba Na thấy có giới thiệu về các dân tộc trong vùng: Ê Đê, Gia Lai, Chàm…tuy nhiên bếp lửa chạy điện là mình thấy không ưng cái bụng. Đi qua nhà trống thấy có mấy cái trống to vật, ở đây có đặc sản là món trống trận Quang Trung.