Nhân nói đến cô Linh Nga Niê Kdam, mình chia sẻ một bài viết rất rất đáng đọc của cô.
TÂY NGUYÊN CÓ "LỄ ĐÂM TRÂU" KHÔNG?
(Linh Nga Niekdam)
Ở Tây Nguyên xưa kia mùa xuân là “ mùa ăn năm uống tháng – hoă mlan bŏng thŭn, tháng nghỉ ngơi – khai ning nơng ” của mùa no đủ với những lễ, hội liên miên từ làng này sang làng khác, hết nhà nọ đến nhà kia. Tập quán “ ăn trâu” thường có trong những lễ cúng được coi là quan trọng của một gia đình hay một cộng đồng.
Với tôn giáo đa thần, trong các lễ cúng tế liên miên của một gia đình Tây Nguyên ngày xửa ngày xưa, việc “ ăn trâu” chỉ diễn ra trong một nghi lễ quan trọng , như lễ mừng chiến thắng ( trước và sau một cuộc chiến tranh bộ lạc), lễ kết nghĩa với ai đó trong hoặc ngoài bộ tộc ( sống cách biệt nên coi trọng việc kết nghĩa lắm), lễ mừng cơm mới khi thu hoạch được 100 gùi lúa,cưới xin cho người trẻ, chúc thọ cho người già, tang ma, bỏ mả của những gia đình có địa vị cao trong cộng đồng….thường diễn ra khi lúa đã chất đầy trong kho, bắp đã treo kín sà nhà. Nghĩa là mùa no đủ đã tới. Và để làm bất cứ việc gì lớn,quan trọng, người Tây Nguyên không chỉ cầu xin mà còn cảm tạ vô số các vị thần linh ( Yang) để được phò trợ. Con trâu được coi là lễ vật thanh sạch nhất, lớn nhất, và chỉ hiến sinh trâu trong một lễ trọng nào đó, chứ không hề có cái gọi là “ Lễ hội đâm trâu” riêng như hiện nay thường gọi.
Trước đây nhiều gia đình trâu nuôi hàng đàn bóng mượt lông chỉ dùng cho các lễ lạt, chúng không hề bị bắt phải vận chuyển nông sản như con bò hay con voi. Chẳng thế hồi đầu đất nước mới thống nhất, ngành Nông nghiệp hướng dẫn làm ruộng nước, bà con dùng voi đi cày, chứ không dùng trâu. Nay không còn thờ cúng yang, nên đa phần các nơi chuyển sang phát triển đàn bò, mà không nuôi nhiều trâu nữa. Vậy nên con trâu cũng không phải là vật “ đầu cơ nghiệp” như quan niệm ở miền xuôi.
Khi quyết định tổ chức một lễ lớn nào có ăn trâu, trước ngày lễ chính, người ta sẽ buộc con trâu một đêm không cho ăn cỏ, để thanh sạch. Trước khi tiến hành hạ thủ, phải có bài “ khóc trâu” bằng văn vần ( như là thơ lục bát nhưng được hát lên bằng giai điệu bổng trầm ). Nội dung đại ý rằng “ lâu nay trâu ở trong nhà, được coi như anh em. Nay trâu thay mặt con người báo với các thần linh công việc đã xong, đã tốt đẹp, cộng đồng ( gia đình) dâng lễ vật này biểu thị lòng thành và sự cám ơn to lớn đối với các yang, cám ơn mày, ơ trâu…”.
( Trong lễ “Xoay cột cầu mùa” của người Bâhnar Chăm, có nghi lễ 7 người phụ nữ dắt trâu đi 7 vòng quanh cột nêu trong tiếng khấn nguyện của thày cúng, để “ báo cáo” với các thần linh và từ giã cộng đồng. Bài “ Khóc trâu” của tộc người Cơ Tu từng được Huy chương vàng Liên hoan nghệ thuật dân gian ở nhiều nơi)
Người ta phải làm sợi dây bằng nứa bện rất chắc,to ngang cổ tay, chọn những người thật khỏe mạnh để hoặc đâm một nhát trúng tim, con trâu chết ngay, hoặc chặt hai chân sau cho trâu không thể chạy lồng được. Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho cộng đồng. Sau đó mang trâu đi xẻ thịt, lấy đầu, đuôi đặt lên mâm cúng, huyết bôi lên cột nêu, cây cổ thụ, cột nhà rông, cầu thang nhà sàn, kho lúa… ( báo cáo các vị Yang là làng đã có cúng trâu). Thịt trâu, ngoài làm bữa ăn cộng cảm cho toàn thể cộng đồng còn chia cho mỗi nhà một rẻo nho nhỏ ( Ai cũng được hưởng lộc yang), da để bện thành giây thừng hay để dành bịt trống. Chưa bao giờ và ở đâu có hiện tượng xô đẩy, tranh cướp. Xương đầu trâu, sau đó sẽ treo ở nhà rông, nhà mồ, càng nhiều đầu trâu càng minh chứng cho sự sang giàu, niềm tự hào của làng, của gia chủ.
Đó có thể coi là những hành vi ứng xử toát lên bản sắc rất nhân văn của văn hóa dân gian Tây Nguyên, khi quan niệm thiên nhiên và ngay cả động vật đều như một thực thể sinh động, có linh hồn, nên không chỉ tôn trọng thần linh, thiên nhiên mà còn cả những con vật gần gũi nữa ( với voi đã thuần dưỡng về còn có lễ đặt tên, lễ cúng sức khỏe hàng năm, thậm chí là lễ cưới …).
Vậy nên tập quán “ ăn trâu” trong các lễ lạt thực ra chỉ mang định tính là con vật được hiến sinh mà thôi. Bên cạnh đó, tộc người nào cũng có thể tổ chức “ ăn trâu”, nhưng không phải đều có lễ đâm ( như người Ê đê chỉ cần lấy đầu & đuôi trâu đặt lên mâm lễ vật dâng cúng là xong).
Tuy nhiên, trên thực tế, hàng chục năm nay ở Tây Nguyên rất ít nơi bà con còn tự tổ chức “ ăn trâu”. Vì rằng đa số đã chuyển đổi tín ngưỡng, việc cúng kiếng các yang – thần linh - không còn phù hợp. Hơn nữa, điều kiện kinh tế không cho phép , vì khó mà thu được 100 gùi lúa . Bên cạnh đó, bà con còn rất sợ bị cho là lạc hậu, mê tín, hủ tục .
Vậy thì “ lễ hội đâm trâu” thường diễn ra ở đâu?
Thực ra chỉ có ở các điểm du lịch nhân một lễ lạt nào đó của địa phương, nhằm thu hút du khách. Hoặc nhân một ngày hội hè gì, Ban tổ chức tài trợ kinh phí, yêu cầu một tộc người nào đó tái hiện lại để thực hiện cái gọi là “ lễ hội đâm trâu giữ gìn bản sắc văn hóa”… Đông đảo bà con các tộc người Tây Nguyên cũng không ưng bụng việc ở đâu đó mời thày cúng của buôn làng đến để thực hiện cái gọi là “ Lễ hội đâm trâu” cho du khách thưởng lãm đâu. Bởi người Tây Nguyên không thích thú gì với việc phải cúng “giả vờ”, cũng không có tập tục đốt tiền âm phủ thay cho tiền thật để cầu xin hoặc tạ ơn.
Mùa Khai ning nơng lại về, dẫu không còn ăn trâu thì vẫn mong sao cho tiếng ching chêng lại vang lên đâu đó trong gió đại ngàn, gọi về những vòng suang náo nức gái trai của những ngày lễ hội xa xưa.