Bryullov là họa sĩ Nga đầu tiên có tác phẩm tầm cỡ thế giới. Vrubel là hiện tượng nghệ thuật tầm cỡ thế giới đầu tiên của thời kỳ tiền chiến, đại diện phong trào Tượng trưng (Symbolism) và Art Nouveau.
Những người dẫn giải đầu tiên về ý tưởng phục hưng tôn giáo là các họa sĩ Viktor Vasnetsov và Mikhail Nesterov (ngày nay được một số người dân tộc chủ nghĩa xem là họa sĩ Nga vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi; Nesterov còn sống tới khi được nhận Giải thưởng Stalin năm 1941), những người bắt đầu vẽ các bích họa tuyệt vời từ cuối thế kỷ mười chín tại các tu viện và nhà thờ. Cùng với họ là Mikhail Vrubel, nhân vật ghê gớm nhất của nghệ thuật trường phái Tượng trưng Nga, vẫn chưa được đánh giá đúng mức ở phương Tây, nhưng lúc này tại Nga được xem là nhân vật hạt giống của thời đại.
Vrubel, một người gốc Ba Lan có pha máu Nga, Đức, Đan Mạch và Tartar, đôi khi được gọi là Cézanne người Nga (với tính khí cáu bẳn của Van Gogh, ta có thể nói thêm như vậy), là rất đáng chú ý bởi thuyết nhị nguyên nghệ thuật của mình. Ông bắt đầu với việc sáng tạo ra tấm bình phong tranh thánh (iconostasis) cho một nhà thờ và kết thúc bằng bức tranh khổng lồ, huyền bí Con Quỷ trông xuống (1902), đỉnh cao của gần hai mươi năm ám ảnh với đề tài này. (Niềm tin ma quỷ theo cách hiểu của Nietzsche rất thịnh hành trong số những nghệ sĩ Tượng trưng Nga). Thậm chí Đấng tiên tri Moses (vẽ trên bức bích hoạ của nhà thờ Thánh Kyril ở Kiev) cũng được Vrubel ban cho một cái nhìn quỷ quái rất kỳ lạ. Nhà nghệ sĩ cảm thấy rằng đám ma quỷ của mình không quá xấu xa như các linh hồn ái nam ái nữ đau đớn khổ sở. Con Quỷ đang nhìn xuống của Vrubel, dõi mắt xuống từ một cảnh quan núi non quái dị, có một thân hình dài ngoằng, hai cánh tay mảnh khảnh khoanh sau đầu và một cái nhìn rất đàn bà, bị tổn thương, mỏng manh, nhưng đồng thời cũng hống hách và thắng cuộc.
Những nhà nghiên cứu đã tìm ra rằng cùng một khuôn mặt thiếu nữ đã được dùng làm mẫu để chàng Vrubel hai tám tuổi nghiên cứu cho bức tranh thánh Đức mẹ Đồng trinh và cho những phác thảo đầu tiên của hình ảnh Con Quỷ. Sự tự mâu thuẫn về triết học và nghệ thuật giằng xé trong tâm trí nhà nghệ sĩ (cũng như những gien xấu) năm 1902 đã đưa Vrubel vào một viện tâm thần, tại đó ông qua đời năm 1910 ở tuổi năm mươi tư, với cặp mắt đã mù hoàn toàn. Họa sĩ Sergei Sudeikin đã viết lại mô tả chuyến ông tới thăm bệnh viện, về thân hình bé nhỏ của Vrubel, khuôn mặt hồng tươi với tròng trắng cặp mắt ông hóa màu xanh xám trông dễ sợ, một vành xanh sậm viền dưới mắt và quanh đôi môi. Sudeikin nghĩ những màu đó tượng trưng cho “cơn điên đông cứng”, nhưng Vrubel làm ông bất ngờ khi ngâm cho ông nghe Trường ca Iliad bằng tiếng Hy Lạp, thơ của Virgil bằng tiếng Latin, Faust bằng tiếng Đức, Hamlet bằng tiếng Anh và Dante bằng tiếng Ý, thêm vào lời bình bằng tiếng Pháp. Sudeikin trông thấy một phác thảo cái đầu Con Quỷ trong phòng của Vrubel – hình ảnh này vẫn tiếp tục ám ảnh nhà nghệ sĩ.
Năm 1906, Sudeikin tham dự cuộc triển lãm những họa sĩ Nga được tổ chức bởi Sergei Diaghilev ở Salon d’Automne, Paris. Phòng triển lãm bắt đầu bởi các tranh thánh và kết thúc bằng Vrubel. Gian Vrubel bao gồm một bức trướng lớn kích thước mười nhân mười sáu mét, bức Mikula Selyaninovich, diễn tả vị anh hùng Nga trong thần thoại. Năm 1896 nó được ra mắt tại cuộc Triển lãm Nghệ thuật Công nghiệp Quốc gia Nga ở Nizhni Novgorod. Mặc dù phác thảo của nó được Nikolai II thông qua, phong cách hiện đại bất thường của bức trướng đã tạo ra một xì căng đan giữa những người xem và trên mặt báo (đặc biệt, nó bị công kích dữ dội bởi nhà báo trẻ tuổi Maxim Gorky). Do sự khăng khăng yêu cầu của Viện Hàn lâm Nghệ thuật, bức trướng bị đưa ra khỏi gian triển lãm chính thức. Đó là một trong những sự hiểu lầm rắc rối về nghệ thuật-chính trị rất nổi tiếng vào khởi đầu thế kỷ.
Sudeikin và họa sĩ thần bí tao nhã Pavel Kuznetsov, cả hai đều có tác phẩm của mình tại cuộc trưng bày của Diaghilev, đã khôi phục bức trướng của Vrubel, lúc này đã bắt đầu bị bong ra trong kho chứa, gập lại như cái chăn. Cùng với bạn mình, họa sĩ phái Vị lai (Futurist) Mikhail Larionov, Sudeikin mỗi ngày đều rảo quanh Salon d’Automne và luôn trông thấy một người bè bè chắc nịch trong gian của Vrubel, đứng hàng giờ liền trước bức Mikula Selyaninovich. Đó là chàng thanh niên Pablo Picasso. Đây ắt hẳn là trường hợp duy nhất khi sở thích của một họa sĩ Tây Ban Nha phái tiền phong (avant-garde) và một quốc vương Nga vô cùng bảo thủ trùng hợp với nhau.
"Công chúa giấc mơ". 1896
Mikhail Aleksandrovich Vrubel. 1856-1910.
Bức bích họa này mang phong cách Art Nouveau. Họa sĩ lấy cảm hứng từ vở kịch của Edmond Rostand dựa trên 1 huyền thoại về thời kỳ hiệp sĩ ("La Princesse lointaine")(1895). Hoàng tử thi sĩ Jouffroy Rudel được nghe chuyện về cuộc hành hương của công chúa Melisande, sống ở mãi bờ bên kia biển khơi. Đem lòng yêu người đẹp, hoàng tử dâng tặng nàng các bài thơ và bài ca của mình. Dự cảm thấy mình sắp chết, chàng lên đường đi tìm người trong mộng. Con tàu chòng chành dữ dội giữa các đợt sóng, giữa bức tranh là chàng hoàng tử sắp chết đang cầm chiếc đàn lyre. Đứng bên cột buồm là bạn của chàng, hiệp sĩ và thi sĩ Bertrand. Bên phải là đám cướp biển, xúc động trước tình yêu sâu sắc của hoàng tử; những gì chúng đang chứng kiến cuối cùng sẽ biến chúng thành các hiệp sĩ thánh chiến tự tâm can. Vào phút cuối đời, hoàng tử cất tiếng hát về ước mơ của mình, nàng công chúa Melisande. Toàn thể thế gian – thiên nhiên cũng như tâm hồn con người – đều rung động trước những âm thanh cao vút. Ngay lúc ấy, cái đẹp khải hoàn khắp thế giới và diễn ra một phép màu: nàng công chúa tuyệt trần cúi xuống vầng trán nhà thơ. Bức tranh nhân cách hóa lý tưởng xuyên thời gian của nghệ thuật và sức mạnh tinh thần của nó trước cõi tạm trần thế. Bức bích họa được S.I. Mamontov đặt hàng với họa sĩ để trang trí cho phần nghệ thuật của gian triển lãm tại Hội chợ Nizhny Novgorod 1896. Vrubel cũng sáng tác một bích họa khác cho gian nghệ thuật, bức "Mikula Selyaninovich", ca ngợi sức mạnh của đất Nga. Ban tổ chức hội chợ đã loại bỏ cả 2 bức bích họa – mãi tới khi được đem về Moskva thì chúng mới được hoàn tất bởi các họa sĩ V.D.Polenov và K.A.Korovin dưới sự chỉ đạo của Vrubel.