tungvk1781
Phượt thủ
2 - Thành lũy Việt Nam trước thời Nguyễn
2-1 : Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, là kinh đô của nhà nước Âu Lạc (tên nước Việt Nam thời đó), dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân (tên nước Việt Nam thời đó) dưới thời Ngô Quyền thế kỷ X sau Công nguyên.
Từ khi dựng nước, các vua Hùng đã xây dựng kinh đô tại Bạch hạc, Việt Trì. Đến đời Thục Phán dời Bạch Hạc xuôi dòng chọn vùng đất, gò đồi vây bọc ở trại Phong Khê quận Vũ Ninh (nay là Cổ Loa) để đóng đô. Trong công cuộc định đô này, Thục Phán phải bỏ rất nhiều công sức như việc chuyển dân đến để xây thành đắp lũy.
Thành rộng hơn ngàn trượng, như hình con ốc nên gọi Loa Thành, lại có tên là Tư Long. Thành cứ đắp xong lại sụt. Vua lấy làm lo, bèn sai khấn trời đất và thần linh sông núi rồi hưng công xây lại. Vòng thành chạy dài hàng chục km, đắp xoáy nhiều tầng. Chân thành cao tới hàng chục thước. Đồ sộ như vậy, nên thời Đường, người ta gọi là thành Côn Luân.
Với số dân it ỏi, công việc đắp thành thật quá sức. Người ta tưởng như có thần phù giúp, nên có truyền thuyết: Năm 255 TCN, An Dương Vương đang băn khoăn cứ xây thành xong lại đổ. Trong lúc ấy, có người xuất hiện - chỉ tay vào cổng thành nói: Thành này xây bao giờ mới xong? Vua gặng hỏi tại sao, người ấy đủng đỉnh trả lời: "Hãy đợi Giang sứ đến thì biết!". Nói xong, người ấy từ biệt đi ngay.
Sáng sớm hôm sau, Vua ra cổng thành thì thấy nổi lên một con rùa vàng tự xưng là Giang sứ và nói được tiếng người. Vua sai đặt Giang sứ vào chiếc mâm vàng để trước điện để giúp việc. Sau đó, Giang sứ giúp vua trị được yêu quái ở núi Thất Diệu (núi Sái). Từ đó, thành Cổ Loa xây đến đâu được đến đấy. Thành xây xong Giang sứ tặng cho Vua chiếc móng của mình để Vua chế nỏ thần chống giặc.
Vị thần kia là ai - nếu không phải là Huyền Thiền Thượng đế Đăng Ma Thiên Tôn. Còn Giang sứ là thần Kim Quy - một bộ tướng của Huyền Thiên Thượng Đế.
Hiện nay, ở núi Thất Diệu phía bắc thành Cổ Loa vẫn còn ngôi quán thờ Huyền Thiên. Quán ấy có tên "Huyền Thiên Đại Quán". Trong quán có tượng Huyền Thiên, tượng rùa và rắn giống như tượng thờ ở Trấn Vũ quán bên hồ Tây, Hà Nội.
Năm 1962, thành Cổ Loa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Vị trí địa lý
Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa.
Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Sông Hoàng (tức sông Thiếp) là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu trong hệ thống sông Thái Bình.
Về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình.
Qua con sông Hoàng, thuyền bè ngược lên sông Hồng là vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền ra đến biển cả, nếu đến vùng phía Đông Bắc bộ thì qua sông Cầu vào hệ thống sông Thái Bình đến sông Thương và sông Lục Nam.
Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân cư đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.
Cấu trúc Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ".
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng địa hình tự nhiên, tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác.
Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở.
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng hiện còn 3 vòng thành. Chu vi vòng Ngoại 8km, vòng Trung 6,5km, vòng Nội 1,65km, diện tích trung tâm lên tới 2km2.
Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4m-5m, có chỗ cao đến 8m-12m. Chân lũy rộng 20m-30m, mặt lũy rộng 6m-12m.
+ Thành Nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6m-12m, chân rộng từ 20m-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Hiện nay, qua cổng làng, cũng là cổng thành Nội là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan hội triều nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy".
Cạnh đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu.
Đó chỉ là một am nhỏ nằm khiêm tốn dưới gốc đa với vẻ u tịch như muốn gợi về câu chuyện tình ngang trái cách đây hàng ngàn năm. Căn phòng trong cùng có một tảng đá là tượng Mỵ Châu.
Đây là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu cũng áo gấm khăn hoa mà linh hồn oan khuất, gợi lên trong lòng những thương cảm. Truyền thuyết kể rằng sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ. Ngay trước cửa am gắn một bia đá nhỏ khắc mấy câu thơ:
Đường ốc quanh quanh tới Cổ thành
Cây đa thiên cổ dáng còn thanh
Hồng hồng mũ ngọc. Người đâu vắng
Lạnh lạnh gươm thần. Đá vẫn xanh
Kẻ Việt người Tần khôn vẹn nghĩa
Khối tình chữ hiếu khó toàn danh
Ôi! Hồn ngọc tĩnh giờ lai láng
Làm khách đang yêu bước chẳng đành.
Từ am Mỵ Châu đi sâu vào phía trong còn có chùa Bảo Sơn với nhiều tượng Phật hết sức sinh động với các tư thế, vẻ mặt khác nhau.
Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền là dựng trên nền nội cung ngày trước. Đền này mới trùng tu, tôn tạo đầu thế kỷ XX, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần.
Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng. Trước đền là Giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần.
Nơi đây, có đầy đủ các loại hình di tích: Đình, đền, chùa, am, miếu. Trong đó hàm chứa biết bao giá trị văn hóa Việt Nam qua bao thế hệ.
+ Thành Trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, chu vi 6.500m, nơi cao nhất là 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng.
+ Thành Ngoại không còn hình dáng rõ ràng, chu vi hơn 8.000m, cao trung bình 3m-4m (có chỗ tới hơn 8m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch, vào vòng hào của thành Nội. Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi.
Theo truyền thuyết, An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hoàng.
Xét về mặt quân sự, thành Cổ Loa có các lợi thế:
- Quy mô lớn vào bậc nhất Đông Nam Á. Trải qua thời gian, chỗ cao nhất của thành hiện nay từ 7-8m, trung bình 3-4m. Chỗ rộng nhất của thành tới 50m, trung bình 20m. Niên đại của thành cách ngày nay tới hơn 2.200 năm.
- Địa thế vùng đồi già, cao so với đồng bằng xung quanh, nên dễ quan sát, lợi thế về quân sự.
- Các cửa thành bố trí so le, đường đi lối lại quanh co, gấp khúc, nhiều gò, đống, lũy, lạch nước rất thuận lợi cho việc phục kích khi giặc vào thành.
- Hào nước xung quanh vừa là chiến tuyến, vừa tạo điều kiện cho quân thủy và quân bộ phối hợp đánh địch. Bởi thế mạnh truyền thông của quân ta là thiện chiến và thủy binh sông nước.
- Vòng thành rộng Bắc hẹp Nam. Cửa Nam là đô hội, Bắc là bố phòng, thể hiện sự quan tâm xác đáng của người xưa.
- Các gò hỏa hồi của thành vừa có tác dụng báo hiệu canh giữ vừa tạo cho thành không có "tử giác".
2-1 : Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, là kinh đô của nhà nước Âu Lạc (tên nước Việt Nam thời đó), dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân (tên nước Việt Nam thời đó) dưới thời Ngô Quyền thế kỷ X sau Công nguyên.
Từ khi dựng nước, các vua Hùng đã xây dựng kinh đô tại Bạch hạc, Việt Trì. Đến đời Thục Phán dời Bạch Hạc xuôi dòng chọn vùng đất, gò đồi vây bọc ở trại Phong Khê quận Vũ Ninh (nay là Cổ Loa) để đóng đô. Trong công cuộc định đô này, Thục Phán phải bỏ rất nhiều công sức như việc chuyển dân đến để xây thành đắp lũy.
Thành rộng hơn ngàn trượng, như hình con ốc nên gọi Loa Thành, lại có tên là Tư Long. Thành cứ đắp xong lại sụt. Vua lấy làm lo, bèn sai khấn trời đất và thần linh sông núi rồi hưng công xây lại. Vòng thành chạy dài hàng chục km, đắp xoáy nhiều tầng. Chân thành cao tới hàng chục thước. Đồ sộ như vậy, nên thời Đường, người ta gọi là thành Côn Luân.
Với số dân it ỏi, công việc đắp thành thật quá sức. Người ta tưởng như có thần phù giúp, nên có truyền thuyết: Năm 255 TCN, An Dương Vương đang băn khoăn cứ xây thành xong lại đổ. Trong lúc ấy, có người xuất hiện - chỉ tay vào cổng thành nói: Thành này xây bao giờ mới xong? Vua gặng hỏi tại sao, người ấy đủng đỉnh trả lời: "Hãy đợi Giang sứ đến thì biết!". Nói xong, người ấy từ biệt đi ngay.
Sáng sớm hôm sau, Vua ra cổng thành thì thấy nổi lên một con rùa vàng tự xưng là Giang sứ và nói được tiếng người. Vua sai đặt Giang sứ vào chiếc mâm vàng để trước điện để giúp việc. Sau đó, Giang sứ giúp vua trị được yêu quái ở núi Thất Diệu (núi Sái). Từ đó, thành Cổ Loa xây đến đâu được đến đấy. Thành xây xong Giang sứ tặng cho Vua chiếc móng của mình để Vua chế nỏ thần chống giặc.
Vị thần kia là ai - nếu không phải là Huyền Thiền Thượng đế Đăng Ma Thiên Tôn. Còn Giang sứ là thần Kim Quy - một bộ tướng của Huyền Thiên Thượng Đế.
Hiện nay, ở núi Thất Diệu phía bắc thành Cổ Loa vẫn còn ngôi quán thờ Huyền Thiên. Quán ấy có tên "Huyền Thiên Đại Quán". Trong quán có tượng Huyền Thiên, tượng rùa và rắn giống như tượng thờ ở Trấn Vũ quán bên hồ Tây, Hà Nội.
Năm 1962, thành Cổ Loa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Vị trí địa lý
Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa.
Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Sông Hoàng (tức sông Thiếp) là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu trong hệ thống sông Thái Bình.
Về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình.
Qua con sông Hoàng, thuyền bè ngược lên sông Hồng là vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền ra đến biển cả, nếu đến vùng phía Đông Bắc bộ thì qua sông Cầu vào hệ thống sông Thái Bình đến sông Thương và sông Lục Nam.
Địa điểm Cổ Loa chính là đất Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân cư đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.
Cấu trúc Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ".
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng địa hình tự nhiên, tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác.
Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở.
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng hiện còn 3 vòng thành. Chu vi vòng Ngoại 8km, vòng Trung 6,5km, vòng Nội 1,65km, diện tích trung tâm lên tới 2km2.
Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4m-5m, có chỗ cao đến 8m-12m. Chân lũy rộng 20m-30m, mặt lũy rộng 6m-12m.
+ Thành Nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6m-12m, chân rộng từ 20m-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Hiện nay, qua cổng làng, cũng là cổng thành Nội là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan hội triều nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy".
Cạnh đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu.
Đó chỉ là một am nhỏ nằm khiêm tốn dưới gốc đa với vẻ u tịch như muốn gợi về câu chuyện tình ngang trái cách đây hàng ngàn năm. Căn phòng trong cùng có một tảng đá là tượng Mỵ Châu.
Đây là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu cũng áo gấm khăn hoa mà linh hồn oan khuất, gợi lên trong lòng những thương cảm. Truyền thuyết kể rằng sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ. Ngay trước cửa am gắn một bia đá nhỏ khắc mấy câu thơ:
Đường ốc quanh quanh tới Cổ thành
Cây đa thiên cổ dáng còn thanh
Hồng hồng mũ ngọc. Người đâu vắng
Lạnh lạnh gươm thần. Đá vẫn xanh
Kẻ Việt người Tần khôn vẹn nghĩa
Khối tình chữ hiếu khó toàn danh
Ôi! Hồn ngọc tĩnh giờ lai láng
Làm khách đang yêu bước chẳng đành.
Từ am Mỵ Châu đi sâu vào phía trong còn có chùa Bảo Sơn với nhiều tượng Phật hết sức sinh động với các tư thế, vẻ mặt khác nhau.
Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền là dựng trên nền nội cung ngày trước. Đền này mới trùng tu, tôn tạo đầu thế kỷ XX, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần.
Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng. Trước đền là Giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần.
Nơi đây, có đầy đủ các loại hình di tích: Đình, đền, chùa, am, miếu. Trong đó hàm chứa biết bao giá trị văn hóa Việt Nam qua bao thế hệ.
+ Thành Trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, chu vi 6.500m, nơi cao nhất là 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng.
+ Thành Ngoại không còn hình dáng rõ ràng, chu vi hơn 8.000m, cao trung bình 3m-4m (có chỗ tới hơn 8m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch, vào vòng hào của thành Nội. Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi.
Theo truyền thuyết, An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hoàng.
Xét về mặt quân sự, thành Cổ Loa có các lợi thế:
- Quy mô lớn vào bậc nhất Đông Nam Á. Trải qua thời gian, chỗ cao nhất của thành hiện nay từ 7-8m, trung bình 3-4m. Chỗ rộng nhất của thành tới 50m, trung bình 20m. Niên đại của thành cách ngày nay tới hơn 2.200 năm.
- Địa thế vùng đồi già, cao so với đồng bằng xung quanh, nên dễ quan sát, lợi thế về quân sự.
- Các cửa thành bố trí so le, đường đi lối lại quanh co, gấp khúc, nhiều gò, đống, lũy, lạch nước rất thuận lợi cho việc phục kích khi giặc vào thành.
- Hào nước xung quanh vừa là chiến tuyến, vừa tạo điều kiện cho quân thủy và quân bộ phối hợp đánh địch. Bởi thế mạnh truyền thông của quân ta là thiện chiến và thủy binh sông nước.
- Vòng thành rộng Bắc hẹp Nam. Cửa Nam là đô hội, Bắc là bố phòng, thể hiện sự quan tâm xác đáng của người xưa.
- Các gò hỏa hồi của thành vừa có tác dụng báo hiệu canh giữ vừa tạo cho thành không có "tử giác".
Last edited: